Viêm quanh răng mãn tính

  08:05 AM 02/10/2022
Viêm quanh răng mãn tính Viêm quanh răng mạn tính (Chronic Periodontitis) là dạng phổ biến nhất của bệnh viêm quanh răng. “Viêm quanh răng mạn tính” là một bệnh nhiễm khuẩn gây ra phản ứng viêm ở các mô nâng đỡ răng dẫn đến tình trạng mất bám dính và tiêu xương ổ răng. Đặc trưng của bệnh là tiến triển chậm, hình thành túi quanh răng và mất bám dính, có thể xảy ra ở bất cứ lứa tuổi nào. Tỉ lệ mắc bệnh và mức độ trầm trọng của bệnh gia tăng theo tuổi.

   Viêm quanh răng mạn tính là loại viêm quanh răng phổ biến nhất. Thường gặp nhất ở người lớn > 35 tuổi, nhưng thanh thiếu niên và thậm chí cả trẻ đang còn răng sữa cũng có thể mắc. Nó đặc trưng bởi tốc độ tiến triển chậm, với những giai đoạn trầm trọng và thuyên giảm, và cũng bởi mối tương quan giữa mức độ phá hủy và sự hiện diện của các yếu tố tại chỗ như mảng bám.

   Khoảng 85% dân số mắc bệnh ở mức độ nhẹ, nhưng các trường hợp rất nặng gặp ở < 5% dân số. Do sự tiến triển chậm của nó, độ tuổi của bệnh nhân hiện tại không cho biết là khi nào bệnh đã bắt đầu. Bệnh nhân có bệnh rõ rệt thường là những người > 35 tuổi, và mất răng thường bắt đầu khi bệnh nhân trên 40 tuổi.

Yếu tố bệnh căn là mảng bám vi khuẩn, nhưng cơ chế đáp ứng của vật chủ đóng một vai trò quan trọng trong sinh bệnh học.
   Viêm quanh răng mạn tính có các đặc điểm sau:
+ Bệnh thường gặp ở người trưởng thành
+ Có biểu hiện viêm lợi mạn tính                      
+ Có túi lợi bệnh lý và mất bám dính quanh răng
+ Răng lung lay ở các mức độ khác nhau
+ Có nhiều mảng bám răng và cao răng trên và dưới lợi
+ Có hình ảnh tiêu xương ổ răng trên phim X-quang
+ Mức độ phá huỷ xương phù hợp với sự hiện diện của các yếu tố tại chỗ
+ Tốc độ phát triển chậm hoặc trung bình, nhưng cũng có những thời kỳ tiến triển nhanh gia tăng xuất tiết dịch viêm ở tổ chức lợi quanh răng.

Hình 1: Viêm quanh răng mãn tính

Một số yếu tố liên quan đến bệnh quanh răng
    Có nhiều yếu tố liên quan đến bệnh quanh răng, đó là các yếu tố nguy cơ khiến bệnh nhân dễ mắc bệnh cũng như làm nặng bệnh khi có những yếu tố này, các yếu tố này cũng ảnh hưởng đến quá trình điều trị bệnh. Để giải quyết triệt để bệnh QR cũng như dự phòng thì tìm hiểu về các yếu tố ảnh hưởng đến bệnh là cần thiết.
Các yếu tố chính gây bệnh quanh răng có thể chia thành ba nhóm đó là:
+ Các yếu tố có thể thay đổi
Nhóm này bao gồm các yếu tố như vi khuẩn, hút thuốc lá, bệnh tim mạch, đái tháo đường, stress, tình trạng dinh dưỡng và béo phì.
- Vi khuẩn chứa trong cao răng đặc biệt là trong mảng bám răng được nhiều nghiên cứu chứng minh có vai trò bệnh sinh quan trọng với bệnh quanh răng. Thực hành chăm sóc sức khoẻ vệ sinh răng miệng đúng cách góp phần làm giảm lượng vi khuẩn do giảm hình thành mảng bám răng, cao răng.
- Trong bệnh đái tháo đường, tình trạng tăng đường huyết mạn tính dẫn đến nhiều nguy cơ biến chứng, tổn thương các mao mạch, làm nặng tình trạng các nhiễm trùng và chậm lành thương trong đó có các nhiễm trùng răng miệng. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh được ảnh hưởng của đái tháo đường lên bệnh vùng quanh răng. Cơ chế do đường huyết và nước bọt tăng bị thay đổi làm thay đổi hệ vi sinh vùng quanh răng và giảm khả năng đề kháng tại chỗ.
- Tình trạng dinh dưỡng và các thói quen xấu như hút thuốc lá và uống rượu cũng có vai trò quan trọng trong bệnh sinh bệnh quanh răng. Các thói quen xấu tác động trọng thời gian dài, cùng với đó là tình trạng thiếu dinh dưỡng sẵn có do giảm hấp thu, do quá trình dị hoá đang tăng hơn so với đồng hoá làm tăng nặng bệnh ở tổ chức quanh răng. Chế độ ăn không chỉ ảnh hưởng đến tình trạng mảnh bám răng và khởi phát viêm lợi mà một số loại thức ăn còn ảnh hưởng đến chuyển hóa vi khuẩn và khả năng gây bệnh của vi khuẩn. Đặc biệt các chế độ ăn thiếu hụt vitamin B đều gây bệnh vùng lợi, thiếu vitamin A, D, E gây chậm lành thương, đặc biệt thiếu vitamin C có ảnh
hưởng lớn đến bệnh vùng quanh răng. Ngoài ra còn có tình trạng thiếu hụt protein và đói ăn cũng làm trầm trọng bệnh quanh răng. Trong khi đó tình trạng hút thuốc lá làm thay đổi môi trường miệng, giảm tiết nước bọt làm tăng các bệnh lợi, mặt khác các chất độc trong thuốc lá đặc biệt là nicotin được chứng minh là yếu tố bệnh căn trực tiếp gây viêm quanh răng.
+ Các yếu tố không thay đổi
Nhóm này gồm tình trạng loãng xương, các rối loạn về máu, các phản ứng của cơ thể vật chủ, sự thay đổi nội tiết ở nữ và thời kỳ thai nghén.

- Nhiều nghiên cứu nhận thấy sự giảm mật độ xương ở tuổi già có liên quan tới tình
trạng mất xương ổ răng tăng theo tuổi tác.
- Ở phụ nữ sự thay đổi nội tiết tố do kinh nguyệt, các hoocmon như progesteron hay estrogen thay đổi cũng có ảnh hưởng đến tổ chức quanh răng vì vậy mà xung quanh thời kỳ hành kinh, tình trạng viêm lợi của bệnh nhân có thay đổi theo chiều hướng nặng lên. Các tác động của estrogen cũng có ảnh hưởng lên xương vì thế cũng có thể có những mối liên quan đến loãng xương ở thời kỳ mạn kinh hay sự mất xương ở vùng quanh răng.
+ Các yếu tố liên quan tới đặc điểm của cá thể
Nhóm này bao gồm tuổi, giới, thực trạng kinh tế, tình trạng giáo dục và chủng tộc, đặc tính di truyền, đặc tính của protein phản ứng C.
- Người ta nhận thấy những người có tình trạng vệ sinh răng miệng tốt, được tiếp cận với các thông tin truyền thông giáo dục sức khoẻ có hiểu biết tốt hơn từ đó biết cách chăm sóc răng miệng tốt hơn. Các đặc tính di truyền hình thành nên tổ chức học vùng răng lợi khác nhau ở các đối tượng khác nhau cũng có ảnh hưởng ít nhiều tới bệnh quanh răng do nó tạo điều kiện cho các yếu tố vệ sinh răng miệng được thuận lợi hơn.
- Ngoài ra còn phải kể tới các yếu tố khác ảnh hưởng gián tiếp tới bệnh như thực trạng kinh tế xã hội, nhận thức xã hội tốt về bệnh,các chăm sóc y tế,giáo dục sức khoẻ tại cộng đồng… Khi các điều kiện này được đáp ứng tốt, mọi người có kiến thức tốt về bệnh viêm quanh răng đồng thời biết các chăm sóc răng miệng đúng, thăm khám sớm khi có biểu hiện bệnh hay bệnh ở mức độ nhẹ từ đó việc phát hiện điều trị được triệt để và dễ dàng.
   Tất cả các yếu tố kể trên đều có ảnh hưởng tác động ít nhiều tới bệnh VQR.

Điều trị viêm quanh răng
   Điều trị viêm quanh răng không có biện pháp điều trị đặc hiệu đơn lẻ nào mà là một phức hợp các thủ thuật quanh răng và không phải quanh răng. Phương pháp điều trị gồm có các biện pháp điều trị bảo tồn và điều trị phẫu thuật.
+ Điều trị bảo tồn: Bao gồm điều trị khởi đầu, điều trị duy trì và liệu pháp kháng sinh.
- Điều trị khởi đầu gồm các biện pháp như hướng dẫn vệ sinh răng miệng, lấy cao răng và xử lý bề mặt chân răng, loại bỏ những yếu tố trực tiếp và gián tiếp gây bệnh và điều trị toàn thân. Đây là bước rất quan trọng để giải quyết nguyên nhân của bệnh
- Lấy cao răng bằng máy siêu âm và dụng cụ cầm tay. Sau khi lấy cao răng, làm nhẵn bề mặt răng và chân răng để hạn chế tái hình thành mảng bám.

Hình 2: trước và sau khi lấy cao răng

- Hướng dẫn bệnh nhân thực hiện các biện pháp vệ sinh răng miệng bao gồm chải răng đúng phương pháp với bàn chải và kem đánh răng thích hợp, cách vệ sinh kẽ răng bằng tăm và chỉ tơ nha khoa, súc miệng các dung dịch sát khuẩn.
- Loại bỏ các yếu tố thuận lợi cho việc hình thành và tích tụ mảng bám răng như sửa chữa các phục hồi và phục hình sai, hàn răng sâu, nhổ răng không còn khả năng điều trị bảo tồn, sửa chữa khớp cắn sang chấn, sửa chữa hình thể các răng dễ gây sang chấn khi nhai, các răng lệch lạc. cố định tạm thời các răng lung lay. Phẫu thuật cắt phanh môi, phanh niêm mạc bám sai vị trí.
- Điều trị duy trì bao gồm vệ sinh răng miệng tốt và thường xuyên, định kỳ tái khám 3 tháng/lần để kiểm tra tình trạng vệ sinh răng miệng, tình trạng viêm lợi và túi lợi, lấy cao răng và mảng bám răng nếu có và kiểm soát các yếu tố gián tiếp gây bệnh như tình trạng khớp cắn, các răng lung lay và có bệnh lý khác.
- Viêm quanh răng được coi là một bệnh nhiễm khuẩn nên có thể sử dụng kháng sinh đường uống và bôi tại chỗ để hỗ trợ điều trị. Việc dùng kháng sinh tại chỗ có thể đạt nồng độ thuốc điều trị cao hơn so với đường toàn thân. Đã có nhiều nghiên cứu về tác dụng tại chỗ của Tetracyclin và Metronidazole đi đến kết luận rằng ngoài việc làm giảm liều lượng kháng sinh, nó còn cải thiện rất tốt một vài chỉ số lâm sàng, như giảm độ sâu túi lợi và chảy máu khi thăm khám.

- Có thể sử dụng laser để hỗ trợ điều trị, giảm viêm túi quanh răng.
+ Điều trị phẫu thuật
Trong một số trường hợp có thể phải phẫu thuật để loại bỏ túi quanh răng.

 

                                                                                               TS. Phạm Thị Thu Hằng

                                                                                            Khoa Răng – BVTWQĐ 108

 

Chia sẻ
EMC Đã kết nối EMC