1. Thành phần hoạt chất
- Erlotinib 100mg.
2. Tarceva là thuốc gì?
- Đây là thuốc ức chế hoạt tính tyrosine kinase, thuốc có tác dụng trong điều trị cho bệnh nhân mắc ung thư phổi không tế bào nhỏ.
3. Chỉ định điều trị
- Ung thư phổi không phải tế bào nhỏ.
- Ung thư tụy.
4. Liều dùng và cách dùng
4.1. Liều dùng:
- Ung thư phổi không phải tế bào nhỏ: Liều dùng hàng ngày được khuyến cáo của Tarceva là 150mg dùng ít nhất một giờ trước hoặc hai giờ sau khi ăn.
- Ung thư tụy: Liều hàng ngày được khuyến cáo của Tarceva là 100mg dùng ít nhất một giờ trước hoặc hai giờ sau khi ăn, phối hợp với gemcitabine.
Trên bệnh nhân không bị phát ban trong vòng 4-8 tuần điều trị đầu tiên, điều trị tiếp tục Tarceva cần được đánh giá lại.
4.2. Cách dùng:
Tarceva được đưa vào cơ thể người bệnh thông qua đường uống.
5. Chống chỉ định
- Mẫn cảm trầm trọng với erlotinib hoặc với bất kỳ thành phần nào của Tarceva.
6. Tác dụng không mong muốn
- Nổi ban và tiêu chảy là những tác dụng ngoài ý thường gặp nhất không kể nguyên nhân.
- Các rối loạn gan mật.
- Các rối loạn về mắt: Viêm giác mạc được ghi nhận thường xuyên trong các thử nghiệm lâm sàng.
- Viêm kết mạc được ghi nhận thường xuyên trong các thử nghiệm ung thư tụy.
- Các rối loạn về hô hấp, lồng ngực và trung thất.
- Các rối loạn da và mô dưới da: Các thay đổi khác về tóc và móng, đa phần không nghiêm trọng, đã được ghi nhận xảy ra không thường xuyên từ giám sát sau khi thuốc được lưu hành trên thị trường, vd: rậm lông, thay đổi lông mi, lông mày, viêm quanh móng, móng dòn dễ bong.
7. Tương tác thuốc
- Erlotinib được chuyển hóa ở gan bởi hệ cytochrome gan ở người, chủ yếu bởi CYP3A4 và ít hơn bởi CYP1A2, và CYP1A1 đồng dạng ở phổi. Khả năng tương tác có thể xảy ra với những thuốc được chuyển hóa bởi, hoặc là những thuốc ức chế hoặc kích thích những enzyme này. Các chất ức chế mạnh hoạt tính CYP3A4 làm giảm sự chuyển hóa của erlotinib và làm tăng nồng độ huyết tương của erlotinib. Ketoconazole ức chế sự chuyển hóa CYP3A4 (200mg uống hai lần mỗi ngày trong 5 ngày) làm tăng nồng độ erlotinib (nồng độ phân bố trung vị erlotinib [AUC] tăng 86%) và Cmax tăng 69% khi so sánh với việc dùng erlotinib đơn thuần.
- Điều trị trước đó hoặc dùng đồng thời rifampicin với liều duy nhất 450mg Tarceva làm AUC với erlotinib giảm còn 57.5% so với giá trị khi dùng liều đơn 150mg Tarceva mà không dùng kèm rifampicin.
- Tính tan của erlotinib phụ thuộc vào pH. Tính tan của erlotinib giảm khi pH tăng. Dùng đồng thời Tarceva với omeprazole, một chất ức chế bơm proton, giảm nồng độ phân bố erlotinib (AUC) và nồng độ tối đa (Cmax) lần lượt là 46% và 61%. Không có thay đổi về Tmax và thời gian bán thải. Vì vậy, các thuốc làm thay đổi pH đường tiêu hóa trên có thể thay đổi tính tan của erlotinib và độ sinh khả dụng của thuốc này.
8. Dược động học
- Nồng độ trong máu:
Sau liều uống 150 mg Tarceva, ở trạng thái ổn định, trung vị thời gian đến khi đạt nồng độ đỉnh trong huyết tương vào khoảng 4 giờ với trung vị nồng độ đỉnh huyết tương đạt được là 1995 ng/mL. Ở thời điểm 24 giờ trước khi dùng liều kế tiếp, trung vị nồng độ tối thiểu huyết tương là 1238 ng/mL. Trung vị AUC đạt được trong suốt quãng thời gian giữa các liều ở trạng thái ổn định là 41300 mcg*giờ/mL.
- Hấp thu
Erlotinib uống được hấp thu tốt và có giai đoạn hấp thu kéo dài, với nồng độ đỉnh huyết tương trung bình đạt được sau khi uống 4 giờ. Một nghiên cứu ở những người tình nguyện khoẻ mạnh bình thường cho thấy độ sinh khả dụng ước tính khoảng 59%. Nồng độ sau khi uống có thể tăng bởi thức ăn.
Sau khi hấp thu, erlotinib gắn kết cao trong máu, khoảng 95% gắn với các thành phần máu, chủ yếu với protein huyết tương (ví dụ albumin và acid alpha-1 glycoprotein [AAG]), với khoảng 5% ở dạng tự do.
- Phân bố
Erlotinib có thể tích phân bố trung bình là 232 L và phân bố vào trong mô khối u người. Các chất chuyển hoá có hoạt tính chính hiện diện trong khối u tại nồng độ trung bình là 160 ng/g mô, tương ứng với giá trị trung bình chung của 113% các nồng độ đỉnh huyết tương ở trạng thái ổn định.
Erlotinib được chuyển hóa tại gan bởi các men cytochrome P450 tại gan ở người, chủ yếu bởi CYP3A4 và chuyển hóa ít hơn bởi CYP1A2. Chuyển hóa ngoài gan bởi CYP3A4 ở ruột, CYP1A1 ở phổi, và CYP1B1 ở mô khối u có khả năng đóng góp vào thanh thải chuyển hóa erlotinib. Có ba con đường chuyển hóa chính được xác định: 1) sự khử O-methyl của từng chuỗi bên hoặc cả hai, sau đó được oxy hóa thành acid carboxylic; 2) oxy hóa một nửa acetylene sau đó thủy phân thành acid aryl carboxylic; và 3) sự hydroxyl hóa vòng thơm của gốc phenyl-acetylene. Những chất chuyển hóa chính của erlotinib tạo bởi sự khử O-methyl của từng chuỗi bên có hiệu lực tương đương với erlotinib trong các nghiệm pháp in vitro tiền lâm sàng và các mẫu mô in vivo. Chúng có mặt trong huyết tương với nồng độ < 10% erlotinib và có dược động học tương tự như erlotinib.
- Thải trừ
Các chất chuyển hóa và lượng rất nhỏ của erlotinib được bài tiết chủ yếu qua phân (> 90%), với sự bài tiết tại thận chỉ chiếm một lượng nhỏ liều uống vào.
9. Tài liệu tham khảo
- Tờ thông tin sản phẩm Tarceva