TÓM TẮT
Mục tiêu: nghiên cứu giai đoạn 3 nhằm chứng minh sự không thua kém của S-1 đơn trị và tính ưu thế của gemcitabine cộng S-1 so với gemcitabine đơn trị về sống thêm toàn bộ.
Bệnh nhân và phương pháp: bệnh nhân ung thư tụy giai đoạn tại chỗ tiến xa hoặc di căn chưa điều trị hóa chất. Bệnh nhân được phân ngẫu nhiên điều trị với gemcitabine đơn trị (1.000 mg /m2 vào các ngày 1, 8, và 15 của chu kỳ 28 ngày), S-1 đơn trị (80mg; 100mg hoặc 120 mg/ngày theo diện tích bề mặt cơ thể vào ngày 1 đến ngày 28 của chu kỳ 42 ngày), hoặc gemcitabine + S-1 (gemcitabine 1.000 mg/m2 vào ngày 1 và 8 cộng với S-1 liều 60mg, 80mg hoặc 100 mg/ngày theo diện tích bề mặt cơ thể từ ngày 1 đến ngày 14 của chu kỳ 21 ngày).
Kết quả: tổng số có 834 bệnh nhân tham gia, trung vị thời gian sống thêm toàn bộ ở nhóm gemcitabine là 8,8 tháng, ở nhóm S-1 là 9,7 tháng và ở nhóm gemcitabine + S-1 là 10,1 tháng. Nhóm S-1 không thua kém so với nhóm gemcitabine (HR, 0,96; 97,5% CI, 0,78-1,18; Pkhông thua kém<0,001), trong khi chưa chứng minh được nhóm gemcitabine + S-1 tốt hơn so với nhóm gemcitabine (HR, 0,88; KTC 97,5%, 0,71 đến 1,08; p = 0,15). Các phác đồ đều dung nạp tốt, mặc dù độc tính huyết học và đường tiêu hoá nghiêm trọng hơn ở nhóm gemcitabine + S-1 so với nhóm gemcitabine.
Kết luận: Điều trị đơn trị với S-1 không thua kém gemcitabine về thời gian sống thêm toàn bộ với khả năng dung nạp tốt và cung cấp một giải pháp đường uống thay thế thuận tiện cho các bệnh nhân ung thư tụy giai đoạn tại chỗ tiến xa và di căn.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư tuyến tụy (PC) là nguyên nhân gây tử vong do ung thư đứng thứ 8 trên thế giới, ước tính có khoảng 266.000 ca tử vong trong năm 2008. Gemcitabine đã trở thành phác đồ điều trị tiêu chuẩn cho PC giai đoạn tại chỗ tiến xa, cải thiện thời gian sống thêm toàn bộ (OS) so với fluorouracil. Mặc dù đã có nhiều phác đồ hoá chất dựa trên sự kết hợp với gemcitabine được đánh giá, chỉ erlotinib + gemcitabine cho thấy lợi ích một chút về sống thêm so với gemcitabine. Fluorouracil/leucovorin + irinotecan + oxaliplatin (FOLFIRINOX), một phác đồ kết hợp hoá chất không có gemcitabine, gần đây đã chứng minh một cách rõ ràng lợi ích sống thêm so với gemcitabine cho những bệnh nhân PC giai đoạn di căn có tình trạng toàn thân 0-1 điểm. Tuy nhiên, vì FOLFIRINOX có độc tính đáng kể, phác đồ này chỉ được giới hạn cho những bệnh nhân có tình trạng toàn thân tốt và yêu cầu giám sát chặt chẽ.
Tại Nhật Bản, các thử nghiệm lâm sàng của S-1 (TS-1; Dược phẩm Taiho, Tokyo, Nhật Bản) đã được triển khai từ đầu những năm 2000 cho bệnh nhân PC. S-1 là một dẫn xuất fluoropyrimidine đường uống, được chứng minh là có hiệu quả đối với ung thư dạ dày và nhiều loại ung thư khác. Các nghiên cứu giai đoạn 2 về S-1 trong điều trị bước 1 cho PC di căn cho thất tỷ lệ đáp ứng cao, từ 21,1% - 37,5%. Do đó, S-1 đã được chấp thuận cho điều trị PC tại Nhật Bản từ năm 2006. Các nghiên cứu mở rộng gemcitabine + S-1 (GS) cũng đã được khởi xướng, chủ yếu ở Nhật Bản, và hai nghiên cứu giai đoạn 2 đã báo cáo tỷ lệ đáp ứng cao từ 44,4% đến 48,5% và trung vị thời gian sống thêm toàn bộ (OS) dài từ 10,1 đến 12,5 tháng. Vì S-1 và GS hứa hẹn hiệu quả tốt trong điều trị PC, thử nghiệm ngẫu nhiên giai đoạn 3 (GEST [Gemcitabine + S-1]) này được thiết kế để đánh giá hiệu quả của S-1 đơn trị không kém hơn so với gemcitabine và liệu GS có vượt trội hơn so với gemcitabine đơn thuần về OS trong điều trị PC tái phát tại chỗ, di căn không.
BỆNH NHÂN VÀ PHƯƠNG PHÁP
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu ngẫu nhiên giai đoạn 3 tuân thủ đồng thuận Helsinki. Dữ liệu được thu thập bởi một nhóm nghiên cứu theo hợp đồng do các nhà tài trợ ký hợp đồng và được phân tích bởi một nhà thống kê sinh học. Một ủy ban giám sát an toàn và dữ liệu độc lập đã xem xét dữ liệu về hiệu quả và an toàn. Nghiên cứu được phê duyệt bởi ủy ban đạo đức hoặc hội đồng xét duyệt của từng trung tâm tham gia.
Bệnh nhân nghiên cứu: bệnh nhân ung thư tụy giai đoạn tại chỗ tiến xa hoặc di căn; mô bệnh học hoặc tế bào học xác chẩn là ung thư biểu mô tuyến hoặc ung thư biểu mô tuyến vảy; chưa xạ trị hoặc hoá trị điều trị ung thư tụy trước đó; tuổi trên 20 (sau đó nghiên cứu đã sửa đổi là < 80 tuổi sau khi 4 trong 8 bệnh nhân 80 tuổi đầu tiên gặp các tác dụng phụ nghiêm trọng); tình trạng toàn thân ECOG: 0-1 điểm; chức năng các cơ quan chính phù hợp.
Điều trị: Phân bố ngẫu nhiên được thực hiện tập trung, phân tầng theo tiến triển của bệnh (bệnh tiến triển tại chỗ và bệnh di căn) và cơ sở điều trị, sử dụng phương pháp tối thiểu hóa. Bệnh nhân được chỉ định dùng gemcitabine đơn trị với gemcitabine liều 1.000 mg / m2 tiêm tĩnh mạch trong 30 phút các ngày 1, 8 và 15 của chu kỳ 28 ngày. Bệnh nhân nhóm S1 được điều trị với S-1 đường uống hai lần mỗi ngày, liều lượng theo diện tích bề mặt cơ thể (BSA) [1,25m2, 80 mg / ngày; 1,25 đến 1,5 m2, 100 mg / ngày và 1,5 m2, 120 mg / ngày] vào ngày 1 đến 28 của chu kỳ 42 ngày. Bệnh nhân trong nhóm GS nhận được gemcitabine liều 1.000 mg / m2 vào ngày 1 và ngày 8 cộng với S-1 uống hai lần mỗi ngày với liều theo BSA (1,25 m2 60 mg / ngày; 1,25 đến 1,5 m2, 80 mg / ngày; 1,5m2, 100 mg / ngày) vào các ngày từ 1 đến 14 của chu kỳ 21 ngày. Các mức liều của S-1 được sử dụng trong nhóm GS dựa trên kết quả của một nghiên cứu giai đoạn II trước đó về GS, trong đó gemcitabine liều 1.000 mg / m2 được kết hợp với các mức liều 120 mg / ngày, 100mg / ngày và 80 mg / ngày của S-1 theo diện tích da. Trong nghiên cứu đó, tỷ lệ ngừng điều trị do các tác dụng phụ là 41% (22 trong số 54 bệnh nhân), tỷ lệ giảm bạch cầu trung tính độ 3 trở lên là 80%, và phải giảm liều ở 56% bệnh nhân (30 trong số 54 bệnh nhân). Do đó, trong nghiên cứu này, liều lượng S-1 trong nhóm GS thấp hơn 20mg / ngày so với liều lượng được sử dụng trong nhóm đơn trị liệu S-1. Thay đổi liều theo tác dụng không mong muốn được xác định trước theo protocol nghiên cứu.
Đánh giá, theo dõi: Khám lâm sàng, xét nghiệm công thức máu và hóa sinh thường quy được thực hiện mỗi 2 tuần trong nhóm S-1 và tại mỗi thời điểm điều trị gemcitabine trong nhóm gemcitabine và trong nhóm GS. Đánh giá tác dụng không mong muốn theo tiêu chuẩn CTCAE, phiên bản 3.0. Chụp cắt lớp vi tính hoặc cộng hưởng từ được thực hiện mỗi 6 tuần cho đến khi bệnh tiến triển. Đánh giá đáp ứng điều trị theo tiêu chuẩn RECIST, phiên bản 1.0. Đánh giá chất lượng sống bằng bảng câu hỏi EuroQol 5 tại các thời điểm 6, 12, 24, 48 và 72 tuần.
Phân tích thống kê: Chỉ tiêu nghiên cứu chính là thời gian sống thêm toàn bộ (OS), được xác định là thời gian kể từ ngày phân nhóm ngẫu nhiên đến ngày tử vong do bất kỳ nguyên nhân nào. Các chỉ tiêu nghiên cứu phụ là thời gian sống thêm bệnh không tiến triển (PFS), tỷ lệ đáp ứng khách quan, tác dụng không mong muốn và chất lượng sống. PFS được tính từ ngày phân ngẫu nhiên đến ngày tử vong mà không có tiến triển hoặc bệnh tiến triển được xác nhận bởi điều tra viên. Phân tích dữ liệu bằng phần mềm SAS, phiên bản 9.1.3.
Hình 1: Sơ đồ nghiên cứu. GS: gemcitabine kết hợp S-1
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Bệnh nhân: Từ tháng 7 năm 2007 đến tháng 10 năm 2009, tổng số 834 bệnh nhân được ghi danh từ 75 cở sở ở Nhật Bản và Đài Loan (768 ở Nhật Bản và 66 ở Đài Loan). Hai bệnh nhân trong nhóm GS bị loại vì ghi danh trước khi có đồng ý bằng văn bản. 832 bệnh nhân còn lại được đưa vào phân tích đầy đủ và sử dụng để tính toán OS và PFS (Hình 1). Các đặc điểm cơ bản và nhân khẩu học của 3 nhóm cân bằng (Bảng 1).
Điều trị: trung vị thời gian điều trị là 2,6 tháng ở nhóm gemcitabine, 2,6 tháng ở nhóm S-1 và 4,3 tháng ở nhóm GS. Các lý do chính cho việc ngừng điều trị là bệnh tiến triển (202 bệnh nhân [72,9%] ở nhóm gemcitabine 215 [76,8%] ở nhóm S-1, và 162 [58,9%] ở nhóm GS) hoặc tác dụng phụ (40 bệnh nhân [14,4%] trong nhóm gemcitabine, 38 [13,6%] trong nhóm S-1, và 76 [27,6%] trong nhóm GS). Cường độ liều tương đối trung bình là 83,0% ở nhóm gemcitabine, 96,1% ở nhóm S-1 và 83,3% đối với gemcitabine và 87,4% đối với S-1 trong nhóm GS.
Bảng 1: Đặc điểm bệnh nhân |
||||||||
ĐẶC ĐIỂM |
Gemcitabine (n = 277) |
S-1 (n = 280) |
GS (n = 275) |
Tổng (N = 832) |
||||
Số lượng |
% |
Số lượng |
% |
Số lượng |
% |
Số lượng |
% |
|
Giới tính Nam Nữ |
170 107 |
61,4 38,6 |
170 110 |
60,7 39,3 |
158 117 |
57,5 42,5 |
498 334 |
59,9 40,1 |
Tuổi, năm < 65 ≥ 65 |
134 143 |
48,4 51,6 |
145 135 |
51,8 48,2 |
137 138 |
49,8 50,2 |
416 416 |
50,0 50,0 |
ECOG PS 0 1 |
181 96 |
65,3 34,7 |
178 102 |
63,6 36,4 |
172 103 |
62,5 37,5 |
531 301 |
63,8 36,2 |
Mức độ bệnh Tiến triển tại chỗ Di căn xa |
66 211 |
23,8 76,2 |
68 212 |
24,3 75,7 |
68 207 |
24,7 75,3 |
202 630 |
24,3 75,7 |
Mô bệnh học UTBM tuyến UTBM tuyến vảy |
272 5 |
98,2 1,8 |
276 4 |
98,6 1,4 |
272 3 |
98,9 1,1 |
820 12 |
98,6 1,4 |
Cắt bỏ tụy Không Có |
254 23 |
91,7 8,3 |
264 16 |
94,3 5,7 |
248 27 |
90,2 9,8 |
766 66 |
92,1 7,9 |
Vị trí khối u Đầu Thân Đuôi |
122 88 68 |
44,0 31,8 24,5 |
110 124 55 |
39,3 44,3 19,6 |
116 102 66 |
42,2 37,1 24,0 |
348 314 189 |
41,8 37,7 22,7 |
Dẫn lưu mật Không Có |
202 75 |
72,9 27,1 |
217 63 |
77,5 22,5 |
209 66 |
76,0 24,0 |
628 204 |
75,5 24,5 |
CEA, ng/mL Trung vị IQR |
5,7 3,0-20,1 |
5,6 2,5-18,4 |
5,9 2,5-20,7 |
5,7 2,6-19,5 |
||||
CA 19-9, ng/mL Trung vị IQR |
1044 52-5002 |
726 64-5000 |
441 45-5090 |
712 55-5002 |
||||
CRP, ng/mL Trung vị IQR |
0,4 0,11-1,38 |
0,5 0,18-1,57 |
0,4 0,15-1,6 |
0,43 0,15-1,57 |
||||
CA19-9: kháng nguyên carbohydrate 19-9; CEA: kháng nguyên carcinoembryonic; CRP, protein phản ứng C. ECOG PS: tình trạng toàn thân theo ECOG. GS, Gemcitabine cộng với S-1; IQR, phạm vi tứ phân vị. |
Thời gian sống thêm: trung vị thời gian theo dõi là 18,4 tháng (0,3 - 36,9 tháng) tính đến ngày 31 tháng 7 năm 2010. Phân tích về OS dựa trên 710 trường hợp tử vong (85,3%) trong số 832 bệnh nhân. Trung vị OS là 8,8 tháng (KTC 95%, 8,0 đến 9,7) ở nhóm gemcitabine, 9,7 tháng (KTC 95%, 7,6 đến 10,8) ở nhóm S-1, và 10,1tháng (KTC 95%, 9,0 đến 11,2) ở nhóm GS (Hình 2A). Tỷ lệ OS ở 12 và 24 tháng lần lượt là 35,4% và 9,2% ở nhóm gemcitabine, 38,7% và 12,7% ở nhóm S-1, và 40,7% và 14,5% ở nhóm GS. Sự không thua kém của S-1 so với gemcitabine về OS đã được chứng minh (HR, 0,96; 97,5% CI, 0,78-1,18; Pkhông thua kém <0.001). Tuy nhiên, nhóm GS đã không có OS cao hơn ở mức có ý nghĩa thống kê so với nhóm gemcitabine (HR, 0,88; 97,5% CI, 0,71 đến 1,08; P=0.15). Phân tích PFS dựa trên 793 sự kiện (95,3%) trong số 832 bệnh nhân. Trung vị PFS là 4,1 tháng (KTC 95%, 3,0 đến 4,4) ở nhóm gemcitabine, 3,8 tháng (KTC 95%, 2,9 đến 4,2) trong nhóm S-1, và 5,7 tháng (KTC 95%, 5,4 đến 6,7) ở nhóm GS (Hình 2B). Tỷ lệ PFS tại thời điểm 6 và 12 tháng lần lượt là 29,8% và 9,1% trong nhóm gemcitabine, 26,9% và 7,2% trong nhóm S-1, và 47,9% và 20,3% trong nhóm GS. S-1 được chứng minh là không thua kém gemcitabine về PFS (HR, 1,09; 97,5% CI, 0,90-1,33; Pkhông thua kém =0.02), và GS đã cải thiện đáng kể PFS so với gemcitabine (HR, 0,66; 97,5% CI, 0,54 đến 0,81; P<0.001).
Hình 2: Ước lượng Kaplan-Meier sống thêm toàn bộ (A) và sống thêm không tiến triển bệnh (B) theo nhóm điều trị. GS: gemcitabine kết hợp S-1.
Phân tích dưới nhóm về sống thêm toàn bộ theo đặc điểm bệnh nhân cho thấy không có mối liên hệ đáng kể giữa S-1 và gemcitabine trong bất kỳ phân nhóm nào (Hình 3A). Tuy nhiên, GS cho thấy tỷ lệ nguy cơ (HR) thuận lợi hơn so với gemcitabine ở nhóm bệnh nhân giai đoạn tại chỗ tiến xa và bệnh nhân toàn trạng 1 điểm (Hình 3B).
Đáp ứng với điều trị: Tỷ lệ đáp ứng là 13,3% (KTC 95%, 9,3 đến 18,2) trong nhóm gemcitabine, 21,0% (95% CI, 16,1 đến 26,6) trong nhóm S-1, và 29,3% (KTC 95%, 23,7 đến 35,5) ở nhóm GS (Bảng 2). Tỷ lệ đáp ứng cao hơn đáng kể trong nhóm S-1 (P=0.02) và trong nhóm GS (P<0.001) so với nhóm gemcitabine.
Điều trị bước hai: điều trị hóa chất bước hai được thực hiện ở 184 bệnh nhân (66,4%) ở nhóm gemcitabine, 185 (66,1%) ở nhóm S-1, và 172 (62,5%) ở nhóm GS. Trong nhóm gemcitabine, 140 bệnh nhân (50,5%) được điều trị phác đồ S-1 đơn trị hoặc phác đồ dựa trên S-1, và trong nhóm S-1 có 162 (57,9%) bệnh nhân được điều trị gemcitabine đơn trị hoặc phác đồ dựa trên gemcitabine. Các phác đồ bước hai phổ biến nhất trong nhóm GS là gemcitabine đơn trị (61 bệnh nhân), GS (53 bệnh nhân), S-1 đơn trị (24 bệnh nhân), irinotecan (6 bệnh nhân), và fluorouracil / leucovorin cộng với oxaliplatin (4 bệnh nhân). Ở Nhật Bản và Đài Loan, việc sử dụng các phương pháp điều trị như erlotinib, oxaliplatin, và irinotecan cho ung thư tuyến tụy chưa được chấp thuận tại thời điểm nghiên cứu. Do đó gemcitabine, S-1, hoặc cả hai được sử dụng ở hầu hết các bệnh nhân.
Hình 3: Phân tích dưới nhóm sống thêm toàn bộ. (A) S-1; (B) gemcitabine kết hợp S-1. ECOG PS: Điểm thể trạng chung ECOG; HR: tỷ lệ rủi ro
Tác dụng không mong muốn (TDKMM) và chất lượng sống: Các tác dụng không mong muốn chính độ 3 trở lên được liệt kê trong Bảng 3. Bệnh nhân trong nhóm gemcitabine có tỷ lệ bị TDKMM độ 3 trở lên như giảm bạch cầu, giảm bạch cầu trung tính, giảm tiểu cầu, tăng AST và ALT cao hơn đáng kể so với bệnh nhân ở nhóm S-1. Tuy nhiên, tỷ lệ mắc tiêu chảy độ 3 trở lên ở nhóm S-1 cao hơn ở nhóm gemcitabine. Bệnh nhân ở nhóm GS có tỷ lệ mắc TDKMM độ 3 trở lên cao hơn đáng kể so với nhóm gemcitabine như giảm bạch cầu, giảm bạch cầu trung tính, giảm tiểu cầu, phát ban, tiêu chảy, nôn mửa và viêm miệng. Có ba trường hợp tử vong được coi là có thể liên quan đến điều trị (bệnh phổi kẽ, nhiễm trùng huyết và viêm gan B cấp tính) ở nhóm gemcitabine, một trong nhóm S-1 (không rõ nguyên nhân), và bốn trong nhóm GS (không rõ nguyên nhân - liên quan đến suy tủy, nhồi máu não, rối loạn mạch máu não và mô kẽ, bệnh phổi). Kết quả chất lượng sống (QALYs) chi tiết trong phần Phụ lục.
BÀN LUẬN
OS và PFS ở nhóm S-1 gần giống với nhóm gemcitabine, xác nhận sự không thua kém của S-1so với gemcitabine về OS và PFS (Hình 2A, 2B). Hồ sơ tác dụng không mong muốn của hai thuốc có phần khác nhau: Gemcitabine có xu hướng cho thấy độc tính đối với hệ tạo máu, trong khi S-1 có xu hướng cho thấy độc tính đường tiêu hoá. Tuy nhiên, cả S-1 và gemcitabine thường dung nạp tốt. Kết quả của chúng tôi cho thấy rằng S-1 có thể được sử dụng như là liệu pháp bước 1 đường uống cho ung thư tuyến tụy giai đoạn tại chỗ tiến xa hoặc di căn.
Hình 4: Ước lượng Kaplan-Meier sống thêm toàn bộ nhóm bệnh tại chỗ tiến xa (A) và di căn (B). GS: gemcitabine kết hợp S-1
Tại thời điểm lập kế hoạch nghiên cứu này, gần như tất cả bệnh nhân tham gia các thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3 về ung thư tuyến tụy đều gồm giai đoạn tại chỗ tiến xa và di căn. Tuy nhiên, vì giai đoạn tại chỗ tiến xa và giai đoạn di căn xa hai thực thể lâm sàng, hiện nay khuyến cáo nên được nghiên cứu riêng biệt. Mặc dù nghiên cứu này bao gồm cả giai đoạn tại chỗ tiến triển, phân tích dưới nhóm cho thấy không có mối liên quan đáng kể giữa S-1 và gemcitabine (Hình 3A). Hơn nữa, đường cong OS ở nhóm S-1 vẫn tương tự như trong nhóm gemcitabine ở cả giai đoạn tại chỗ tiến xa và giai đoạn di căn (Hình 4A, 4B). Về mô bệnh học, nghiên cứu của chúng tôi bao gồm ung thư biểu mô tuyến-vảy, mặc dù tỷ lệ phần trăm của nó là rất thấp (1,4% tổng số bệnh nhân). Khi dữ liệu được phân tích lại sau khi loại trừ bệnh nhân bị ung thư biểu mô tuyến-vảy, kết quả cho thấy OS ở nhóm gemcitabine so với S-1 là không thay đổi (HR, 0,96; KTC 95%, 0,81 đến 1.15). Việc lựa chọn phương pháp điều trị này hay phương pháp điều trị khác phụ thuộc chủ yếu vào lựa chọn của bệnh nhân, các yếu tố lâm sàng hoặc chi phí thuốc, vì hiện tại không có dấu ấn sinh học cho việc sử dụng hiệu quả S-1 hoặc gemcitabine.
Bảng 2: Tỷ lệ đáp ứng |
|||||||||||
Biến số |
Gemcitabine (n = 241) |
S-1 (n = 248) |
GS (n = 242) |
p (Kiểm định ꭕ2) |
|||||||
Số lượng |
% |
Số lượng |
% |
Số lượng |
% |
Gem so với S-1 |
Gem so với GS |
||||
Đáp ứng Hoàn toàn Một phần Bệnh ổn định Bệnh tiến triển |
1 31 119 75 |
0,4 12,9 49,4 31,1 |
0 52 105 69 |
0 21,0 42,3 27,8 |
2 69 102 37 |
0,8 28,5 42,1 15,3 |
|
|
|||
Tỷ lệ đáp ứng |
32 |
13,3 |
52 |
21,0 |
71 |
29,3 |
0,02 |
< 0,001 |
|||
95% CI |
9,3 đến 18,2 |
16,1 đến 26,6 |
23,7 đến 35,5 |
||||||||
Tỷ lệ kiểm soát bệnh |
151 |
62,7 |
157 |
63,3 |
173 |
71,5 |
0,88 |
0,04 |
|||
95% CI |
56,2 đến 68,8 |
57,0 đến 69,3 |
65,4 đến 77,1 |
||||||||
Về nhóm GS, OS không có sự khác biệt đáng kể so với nhóm gemcitabine, mặc dù PFS dài hơn đáng kể. Điều trị bước hai chủ yếu với S-1 trong nhóm gemcitabine có thể là một lý do cho sự khác biệt này. Trung vị OS trong nhóm gemcitabine là 8,8 tháng, dài hơn so với các báo cáo trước đây về gemcitabine trong các nghiên cứu giai đoạn 3 khác cho ung thư tụy giai đoạn tại chỗ tiến xa hoặc di căn.
Mặc dù hiệu quả của điều trị bước 2 không được phân tích trong nghiên cứu này, một nghiên cứu giai đoạn 2 về S-1 điều trị bước hai ở bệnh nhân ung thư tụy kháng gemcitabine cho thấy tỷ lệ đáp ứng là 15% và tỷ lệ kiểm soát bệnh là 58%. So với nhóm GS, nhóm không hứa hẹn hiệu quả với điều trị bước hai, việc sử dụng S-1 trong điều trị bước hai ở nhóm gemcitabine có thể đã góp phần kéo dài thời gian sống thêm.
Việc thiếu sự khác biệt đáng kể về thời gian sống thêm toàn bộ giữa nhóm gemcitabine và GS cho thấy rằng gemcitabine và S-1 có thể được sử dụng tuần tự thay vì đồng thời. Tuy nhiên, nhóm GS có tỷ lệ đáp ứng cao và PFS dài hơn, với HR tốt hơn là 0,66 so với các phác đồ dựa trên gemcitabine trong các nghiên cứu giai đoạn 3 khác (HR 0,75 đến 1,07). Hơn nữa, nhóm GS cho thấy HR thuận lợi về thời gian sống thêm toàn bộ ở những bệnh nhân giai đoạn tại chỗ tiến xa hoặc bệnh nhân có tình trạng hoạt động là 1 trong các phân tích dưới nhóm. Do đó, người ta suy đoán rằng có thể lựa chọn liệu pháp GS, tùy thuộc vào đặc điểm bệnh nhân.
Liên quan đến fluoropyrimidine đường uống khác với S-1, capecitabine đã được nghiên cứu ở những bệnh nhân ung thư tụy, chủ yếu ở phương Tây. Trong hai nghiên cứu giai đoạn 3, kết hợp giữa gemcitabine và capecitabine không kéo dài đáng kể thời gian sống so với gemcitabine đơn trị. Tuy nhiên, kết quả phân tích gộp các nghiên cứu giai đoạn 3 đã chứng minh rằng tỷ lệ sống thêm kéo dài đáng kể khi điều trị kết hợp, với HR là 0,86, tương tự như HR của GS trong nghiên cứu này (0,88).
Bảng 3: Tác dụng không mong muốn độ 3 trở lên |
||||||||
Tác dụng không mong muốn |
Gemcitabine (n = 273) |
S-1 (n = 272) |
GS (n = 267) |
p (Kiểm định ꭕ2) |
||||
Số lượng |
% |
Số lượng |
% |
Số lượng |
% |
Gem so với S-1 |
Gem so với GS |
|
Huyết học Hạ bạch cầu Hạ bạch cầu hạt Hạ tiểu cầu Giảm huyết sắc tố |
51 112 30 39 |
18,7 41,0 11,0 14,3 |
10 24 4 26 |
3,7 8,8 1,5 9,6 |
101 166 46 46 |
37,8 62,2 17,2 17,2 |
< 0,001 < 0,001 < 0,001 0,11 |
< 0,001 < 0,001 0,05 0,41 |
Khác Tăng ALT Tăng AST Tăng bilirubin Mệt mỏi Ban Chán ăn Tiêu chảy Viêm niêm mạc Buồn nôn Nôn Sốt hạ bạch cầu hạt Nhiễm trùng Viêm phổi |
41 41 26 10 2 20 3 0 5 2 1 6 5 |
15,0 15,0 9,5 3,7 0,7 7,3 1,1 0,0 1,8 0,7 0,4 2,2 1,8 |
16 21 39 18 2 31 15 2 5 4 1 7 0 |
5,9 7,7 14,3 6,6 0,7 11,4 5,5 0,7 1,8 1,5 0,4 2,6 0,0 |
29 32 23 13 11 25 12 6 12 12 5 6 2 |
10,9 12,0 8,6 4,9 4,1 9,4 4,5 2,2 4,5 4,5 1,9 2,2 0,7 |
< 0,001 0,01 0,09 0,13 1,00 0,11 0,004 0,25 1,00 0,45 1,00 0,79 0,06 |
0,16 0,32 0,77 0,53 0,01 0,44 0,02 0,01 0,09 0,006 0,12 1,00 0,45 |
Một hạn chế trong nghiên cứu của chúng tôi là không chắc chắn liệu kết quả của chúng tôi có thể được ngoại suy một cách đơn giản đối với bệnh nhân phương Tây hay không, vì dược động học và dược lực học của S-1 giữa người phương Tây và người Đông Á có thể khác nhau. Mặc dù hiện tại S-1 chỉ sẵn sàng dùng cho ung thư tụy tại Nhật Bản, nếu sử dụng S-1 cho bệnh nhân Tây Âu, cần theo dõi hiệu quả của nó và điều chỉnh liều lượng một cách cẩn thận. Một hạn chế tiềm ẩn khác là giới hạn không thua kém có thể lớn hơn 1,33.
Do hầu hết các phác đồ kết hợp dựa trên gemcitabine đều không được chứng minh là vượt trội hơn đáng kể so với gemcitabine đơn trị và FOLFIRINOX đã chứng tỏ ưu thế vượt trội so với gemcitabine trong một nghiên cứu giai đoạn 3, báo cáo HR là 0,57, sự lựa chọn triển khai phác đồ kết hợp không có gemcitabine để điều trị bước 1 dường như được đảm bảo. Tuy nhiên, vì FOLFIRINOX yêu cầu đặt một cổng đường tuyền tĩnh mạch trung tâm để truyền tĩnh mạch liên tục fluorouracil, có thể mong đợi rằng S-1, một fluoropyrimidine đường uống, sẽ thay thế việc truyền fluorouracil liên tục trong tương lai.
KẾT LUẬN
đó gợi ý rằng S-1 có thể được sử dụng như liệu pháp điều trị bước 1 cho ung thư tụy giai đoạn tại chỗ tiến xa hoặc di căn. Bởi vì S-1 đã được xác nhận là phương pháp điều trị chính cho ung thư tụy, các phác đồ dựa trên S-1 dự kiến sẽ được phát triển trong tương lai để cải thiện kết quả điều trị của căn bệnh này.
(Lược dịch theo Randomized Phase III Study of Gemcitabine Plus S-1, S-1 Alone, or Gemcitabine Alone in Patients With Locally Advanced and Metastatic Pancreatic Cancer in Japan and Taiwan: GEST Study của Hideki Ueno, Tatsuya Ioka, Masafumi Ikeda)
Phan Minh Tâm – La Vân Trường
Khoa Chống đau và Chăm sóc giảm nhẹ, Bệnh viện TƯQĐ 108