Dấu ấn ung thư SCC (Squamous Cell Carcinoma)

  03:14 PM 05/04/2021
SCC hay còn được gọi là SCCA (Squamous Cell Carcinoma Antigen) là một glycoprotein, có nhiều ở các mô vảy. Nồng độ SCC tăng lên khi có ung thư ở các tổ chức mô này. Xét nghiệm định lượng SCC được thực hiện bằng phương pháp định lượng miễn dịch không cạnh tranh pha rắn (solid-phase, non-competitive immunoassay), dựa trên kỹ thuật sandwich trực tiếp. Kỹ thuật được thực hiện trên máy xét nghiệm tự động thế hệ mới tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108.

 

1. Chỉ định
     Xét nghiệm định lượng dấu ấn ung thư SCC huyết tương được chỉ định để chẩn đoán, theo dõi sự tiến triển và đáp ứng đối với điều trị các ung thư tế bào vẩy nguyên phát và tái phát, gồm:

     - Ung thư cổ tử cung.

     - Ung thư phổi.

     - Ung thư thực quản.

     - Ung thư vùng đầu, cổ.

     - Ung thư cơ quan sinh dục và tiết niệu 

     - Ung thư da.  
2. Khoảng tham chiếu
     Giá trị bình thường của SCC huyết tương hoặc huyết thanh người khỏe mạnh là 0-3 ng/mL.

3. Ý nghĩa lâm sàng

     Nồng độ SCC huyết tương có thể tăng trong các trường hợp sau:

- Ung thư cổ tử cung: Nồng độ SCC tăng trong 45-83% số bệnh nhân ung thư cổ tử cung tế bào vảy (servical squamous cell carcinoma) và ở 66-84% ung thư cổ tử cung tế bào vảy tái phát. Nồng độ SCC cũng tăng ở 56% số bệnh nhân ung thư cổ tử cung tế bào vảy tuyến (cervical adenosquamous carcinoma) và 0-23% ung thư cổ tử cung tế bào tuyến (cervical adenocarcinoma). Sự tăng nồng độ SCC tỷ lệ với mức độ nặng của ung thư cổ tử cung tế bào vảy. Sau phẫu thuật kết hợp xạ trị, nồng độ SCC huyết tương trở lại bình thường trong khoảng 3 ngày (half-life của SCC là >24 giờ). Sự thay đổi nồng độ SCC cũng tỷ lệ với tiến trình của bệnh. Nồng độ SCC có liên quan đến sự tái phát khối u và tiên lượng của bệnh. Các bệnh nhân ung thư có SCC tăng trở lại sau phẫu thuật 2-6 tuần có tỷ lệ tái phát 92%. So với các dấu ấn ung thư khác, trong ung thư cổ tử cung tế bào vảy, SCC có độ nhạy (70-74%) cao hơn CEA (31-34%) và CA125 (35%).

- Các ung thư cơ quan sinh dục, tiết niệu: Độ nhạy lâm sàng của SCC ở ung thư vú là 0-10%, ở ung thư niêm mạc tử cung là 8-30%, ở ung thư tử cung 30%, ở ung thư buồng trứng là 4-20%, ở ung thư âm hộ là 19-42% và ở ung thư âm đạo là 17%. Nồng độ SCC huyết tương tăng ở 45% ung thư dương vật, cũng có thể tăng ở ung thư niệu đạo.

- Ung thư phổi: Tần suất tăng nồng độ SCC huyết tương cao nhất gặp ở ung thư phổi tế bào vảy là 39-78%, ở ung thư phổi tế bào không nhỏ là 33-61%, ở ung thư phổi tế bào lớn là 18%, ở ung thư phổi tế bào nhỏ là 4-18 % và ở ung thư tế bào tuyến (adenocarcinoma) là 15-42%. Có sự tương quan giữa nồng độ SCC huyết tương và mức độ nặng của ung thư phổi: độ nhạy lâm sàng của SCC ở giai đoạn I là 27-53%, giai đoạn II là 31-72%, giai đoạn III là 60-88% và giai đoạn IV là 71-100%. Cũng có sự tương quan giữa nồng độ SCC và tiến trình bệnh: sau khi phẫu thuật cắt bỏ khối u ở phổi, nồng độ SCC trở về giới hạn bình thường. Nếu tái phát, thường là sau phẫu thuật 4-5 tháng, nồng độ SCC lập tức tăng lên. So với các dấu ấn ung thư khác, trong ung thư phổi tế bào nhỏ, độ nhạy lâm sàng của NSE là 73%, cao hơn của CEA (28%) và của SCC (10%); trong ung thư phổi tế bào không nhỏ, độ nhạy lâm sàng của CEA là 70%, cao hơn của SCC (41%) và của NSE (31%); trong ung thư phổi tế bào vảy, SCC có độ nhạy lâm sàng (76-78%) cao hơn CEA (31-63%).

- Ung thư vùng đầu và cổ: Trong các ung thư vùng đầu và cổ, độ nhạy lâm sàng của SCC là 34-78%, trong đó, tỷ lệ tăng SCC trong ung thư ở xoang xương hàm trên là 49%, ở khoang miệng là 34%, ở lưỡi là 23%, ở thanh quản là 19% và ở họng là 11-33%.

- Ung thư thực quản: Trong ung thư thực quản, độ nhạy lâm sàng trung bình của sự tăng SCC là 30-39%, phụ thuộc vào giai đoạn bệnh: giai đoạn I là 0-27%, giai đoạn II là 20-40%, giai đoạn III là 39-61% và giai đoạn IV là 45-50%.   

- Ung thư da: Ung thư tế bào vảy (SCC) là hình thức phổ biến thứ hai của ung thư da nonmelanoma sau ung thư biểu mô tế bào đáy. SCC tăng cao hầu hết trong các trường hợp ung thư tế bào vẩy ở da. Cần loại trừ một số bệnh lý da lành tình như vảy nến, eczema.

- SCC tăng nhẹ trong một số trường hợp không phải ung thư:

     + Xơ gan, viêm tụy, viêm phổi, lao, viêm nhiễm phụ khoa, viêm da.

     + Riêng trong suy thận, mức độ SCC tăng tương quan thuận với mức độ tăng creatinin huyết tương.

4. Kết quả xét nghiệm SCC tăng trong một số bệnh lành tính sau

Nồng độ SCC huyết tương có thể tăng nhẹ  nhưng < 10 ng/mL) trong các bệnh lành tính với tỷ lệ tăng trong tổng số bệnh nhân ở mỗi bệnh như sau:

- Xơ gan (6-10% số bệnh nhân);

-  Viêm tụy (6-10% số bệnh nhân);

- Suy thận (44-78% số bệnh nhân), mức độ SCC tăng tương quan thuận với mức độ tăng creatinin huyết tương;

- Các bệnh phổi lành tính (viêm phế quản mạn, tắc nghẽn phổi mạn tính, lao) (0-40% số bệnh nhân);

- Các bệnh phụ khoa (3-37% số bệnh nhân), riêng viêm cơ tử cung 3-8%;

- Các bệnh ENT (21% số bệnh nhân);

- Các khối u lành tính (46% số bệnh nhân).

Nếu bạn có bất cứ câu hỏi thắc mắc nào về kết quả xét nghiệm SCC hãy gọi điện thoại theo số: 024.3821.2644 -  gặp TS. BS Nguyễn Thị Tuấn, phụ trách Khoa Miễn dịch, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 (trong giờ hành chính).

 

TS. BS Nguyễn Thị Tuấn

Khoa Miễn dịch, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108

Chia sẻ