1. Thế nào là sụn chêm hình đĩa
Trong khớp gối của mỗi chúng ta có hai sụn chêm là sụn chêm trong và sụn chêm ngoài, các cấu trúc này đóng vai trò phân phối lực truyền từ xương đùi xuống mâm chầy, có thể hiểu nôm na như 1 giảm xóc nằm trong khớp. Ở người trưởng thành, sụn chêm trong có hình chữ C, che phủ 50% bề mặt mâm chày trong và được giữ vào bao khớp bởi các dây chằng vành, chày-sụn chêm và bên trong. Sụn chêm ngoài có hình chữ O, rộng 12 mm, dày 4 mm, che phủ 70% bề mặt mâm chày ngoài và được giữ vào bao khớp cả ở phía trước và sau (phía sau được tăng cường bởi dây chằng đùi-sụn chêm trước và sau), trong khi phần bên ngoài giữ với bao khớp rất lỏng lẻo.
Khi sụn chêm che phủ hết bề mặt mâm chày được gọi là sụn chêm hình đĩa (discoid meniscus). Đây là một dị dạng bẩm sinh của sụn chêm, được Young mô tả lần đầu tiên năm 1889 và sau đó là Watson-Jones vào năm 1930. Sụn chêm hình đĩa thường gặp ở sụn chêm ngoài, rất hiếm gặp ở sụn chêm trong. Tỷ lệ bị sụn chêm hình đĩa theo y văn chiếm từ 1 - 3% dân số và khoảng 20% các trường hợp bị sụn chêm hình đĩa gặp ở khớp gối 2 bên.
2. Cơ chế gây tổn thương
Sụn chêm hình đĩa dễ bị tổn thương hơn sụn chêm bình thường. Do cấu trúc bất thường nên sụn chêm dễ bị kẹt khi khớp gối vận động, gây đau và rách sụn. Trong trường hợp dây chằng giữ sụn chêm vào mâm chầy không có hoặc lỏng lẻo, nguy cơ này càng cao hơn. Cũng như sụn chêm bình thường, khi bị tổn thương, sụn chêm hình đĩa rất khó liền do cấu trúc nghèo mạch máu.
Cơ chế gây tổn thương thường gặp khi gối bị xoắn vặn như khi trụ chân hoặc thay đổi hướng di chuyển, tuy nhiên, một số trường hợp thì cũng không xác định được cơ chế chấn thương rõ ràng.
3. Chẩn đoán
Những triệu chứng chủ yếu của sụn chêm hình đĩa có thể gặp là: đau, hạn chế vận động gối hoặc sưng nề, kẹt khớp gối hoặc không duỗi được hết. Phần lớn bệnh nhân có sụn chêm hình đĩa hầu như không có triệu chứng trong suốt cả cuộc đời mà chỉ tình cờ phát hiện khi thăm khám cộng hưởng từ khớp gối vì một lý do khác.
Ở trẻ thiếu niên, nếu có các biểu hiện như trên, thì cần phải thăm khám xác định xem liệu có phải tổn thương sụn chêm hình đĩa hay không sau khi đã loại trừ các nguyên nhân nội khoa.
Tuy nhiên, các triệu chứng lâm sàng chỉ mang tính gợi ý. Chẩn đoán xác định dựa vào chụp phim cộng hưởng từ khớp gối để xác định mức độ và hình thái tổn thương. Các tiêu chuẩn chẩn đoán như sau:
+ Tiêu chuẩn hay được áp dụng nhất: tỷ lệ giữa chỗ hẹp nhất với chỗ rộng nhất của sụn chêm trên mặt phẳng trán (coronal slice) lớn hơn 20%, tỷ lệ giữa chiều rộng thân sụn chêm với đường kính sụn chêm trên mặt phẳng đứng dọc (sagittal slice) lớn hơn 75%.
+ Tiêu chuẩn ít chính xác hơn: chiều rộng của sụn chêm tại vị trí hẹp nhất lớn hơn 15 mm, và trên ít nhất 3 lát cắt đứng dọc có sự liên tục giữa sừng trước và sừng sau của sụn chêm.
Trong khớp gối của mỗi chúng ta có hai sụn chêm là sụn chêm trong và sụn chêm ngoài, các cấu trúc này đóng vai trò phân phối lực truyền từ xương đùi xuống mâm chầy, có thể hiểu nôm na như 1 giảm xóc nằm trong khớp. Ở người trưởng thành, sụn chêm trong có hình chữ C, che phủ 50% bề mặt mâm chày trong và được giữ vào bao khớp bởi các dây chằng vành, chày-sụn chêm và bên trong. Sụn chêm ngoài có hình chữ O, rộng 12 mm, dày 4 mm, che phủ 70% bề mặt mâm chày ngoài và được giữ vào bao khớp cả ở phía trước và sau (phía sau được tăng cường bởi dây chằng đùi-sụn chêm trước và sau), trong khi phần bên ngoài giữ với bao khớp rất lỏng lẻo.
Khi sụn chêm che phủ hết bề mặt mâm chày được gọi là sụn chêm hình đĩa (discoid meniscus). Đây là một dị dạng bẩm sinh của sụn chêm, được Young mô tả lần đầu tiên năm 1889 và sau đó là Watson-Jones vào năm 1930. Sụn chêm hình đĩa thường gặp ở sụn chêm ngoài, rất hiếm gặp ở sụn chêm trong. Tỷ lệ bị sụn chêm hình đĩa theo y văn chiếm từ 1 - 3% dân số và khoảng 20% các trường hợp bị sụn chêm hình đĩa gặp ở khớp gối 2 bên.
2. Cơ chế gây tổn thương
Sụn chêm hình đĩa dễ bị tổn thương hơn sụn chêm bình thường. Do cấu trúc bất thường nên sụn chêm dễ bị kẹt khi khớp gối vận động, gây đau và rách sụn. Trong trường hợp dây chằng giữ sụn chêm vào mâm chầy không có hoặc lỏng lẻo, nguy cơ này càng cao hơn. Cũng như sụn chêm bình thường, khi bị tổn thương, sụn chêm hình đĩa rất khó liền do cấu trúc nghèo mạch máu.
Cơ chế gây tổn thương thường gặp khi gối bị xoắn vặn như khi trụ chân hoặc thay đổi hướng di chuyển, tuy nhiên, một số trường hợp thì cũng không xác định được cơ chế chấn thương rõ ràng.
3. Chẩn đoán
Những triệu chứng chủ yếu của sụn chêm hình đĩa có thể gặp là: đau, hạn chế vận động gối hoặc sưng nề, kẹt khớp gối hoặc không duỗi được hết. Phần lớn bệnh nhân có sụn chêm hình đĩa hầu như không có triệu chứng trong suốt cả cuộc đời mà chỉ tình cờ phát hiện khi thăm khám cộng hưởng từ khớp gối vì một lý do khác.
Ở trẻ thiếu niên, nếu có các biểu hiện như trên, thì cần phải thăm khám xác định xem liệu có phải tổn thương sụn chêm hình đĩa hay không sau khi đã loại trừ các nguyên nhân nội khoa.
Tuy nhiên, các triệu chứng lâm sàng chỉ mang tính gợi ý. Chẩn đoán xác định dựa vào chụp phim cộng hưởng từ khớp gối để xác định mức độ và hình thái tổn thương. Các tiêu chuẩn chẩn đoán như sau:
+ Tiêu chuẩn hay được áp dụng nhất: tỷ lệ giữa chỗ hẹp nhất với chỗ rộng nhất của sụn chêm trên mặt phẳng trán (coronal slice) lớn hơn 20%, tỷ lệ giữa chiều rộng thân sụn chêm với đường kính sụn chêm trên mặt phẳng đứng dọc (sagittal slice) lớn hơn 75%.
+ Tiêu chuẩn ít chính xác hơn: chiều rộng của sụn chêm tại vị trí hẹp nhất lớn hơn 15 mm, và trên ít nhất 3 lát cắt đứng dọc có sự liên tục giữa sừng trước và sừng sau của sụn chêm.
4. Phân loại tổn thương
Watanabe (1974) phân loại các thể sụn chêm hình đĩa như sau:
+ Thể I: sụn chêm hình đĩa hoàn toàn: sụn chêm che phủ toàn bộ mặt mâm chày ngoài, thể này hay gặp nhất (80%)
+ Thể II: sụn chêm hình đĩa một phần: sụn chêm che phủ một phần mâm chày ngoài, thể này chiếm khoảng 10%
+ Thể III: thể dây chằng Wrisberg: sừng sau của sụn chêm bong khỏi mâm chày. Bình thường sừng sau sụn chêm chỉ bám bởi dây chằng đùi-sụn chêm (dây chằng Wrisberg) căng giữa lồi cầu trong xương đùi và bờ ngoại vi của sụn chêm ngoài, ở thể này sừng sau sụn chêm không bám vào mâm chày sẽ khiến sụn chêm rất di động và gây ra hội chứng 'snapping knee' (khớp gối kêu lục khục)
Watanabe (1974) phân loại các thể sụn chêm hình đĩa như sau:
+ Thể I: sụn chêm hình đĩa hoàn toàn: sụn chêm che phủ toàn bộ mặt mâm chày ngoài, thể này hay gặp nhất (80%)
+ Thể II: sụn chêm hình đĩa một phần: sụn chêm che phủ một phần mâm chày ngoài, thể này chiếm khoảng 10%
+ Thể III: thể dây chằng Wrisberg: sừng sau của sụn chêm bong khỏi mâm chày. Bình thường sừng sau sụn chêm chỉ bám bởi dây chằng đùi-sụn chêm (dây chằng Wrisberg) căng giữa lồi cầu trong xương đùi và bờ ngoại vi của sụn chêm ngoài, ở thể này sừng sau sụn chêm không bám vào mâm chày sẽ khiến sụn chêm rất di động và gây ra hội chứng 'snapping knee' (khớp gối kêu lục khục)
5. Cách điều trị
Trong trường hợp tình cờ phát hiện qua chụp phim, nếu bệnh nhân không có phiền toái về mặt lâm sàng thì có thể không cần can thiệp và chung sống tiếp tục. Trong trường hợp có triệu chứng lâm sàng, phẫu thuật là cần thiết. Phẫu thuật được thực hiện qua nội soi với việc cắt sửa phần sụn chêm rách và tạo hình lại sụn chêm cho có cấu trúc gần giống bình thường. Một số trường hợp phần sụn chêm rách cũng có thể được khâu lại, tuy nhiên phụ thuộc vào việc đánh giá tổn thương trong mổ.
Sau mổ, bệnh nhân có thể đeo nẹp mềm hỗ trợ, chống nạng trong một thời gian nhất định sau đó trở lại sinh hoạt bình thường. Một số trường hợp có thể phải phục hồi chức năng nếu như gối bị hạn chế duỗi trong một thời gian dài. Đa số các bệnh nhân có thể trở lại với sinh hoạt vận động bình thường, tuy nhiên, trong một số trường hợp tổn thương nặng có thể bệnh nhân vẫn bị triệu chứng đau và về lâu dài có nguy cơ thoái hóa khớp sớm.
Trong trường hợp tình cờ phát hiện qua chụp phim, nếu bệnh nhân không có phiền toái về mặt lâm sàng thì có thể không cần can thiệp và chung sống tiếp tục. Trong trường hợp có triệu chứng lâm sàng, phẫu thuật là cần thiết. Phẫu thuật được thực hiện qua nội soi với việc cắt sửa phần sụn chêm rách và tạo hình lại sụn chêm cho có cấu trúc gần giống bình thường. Một số trường hợp phần sụn chêm rách cũng có thể được khâu lại, tuy nhiên phụ thuộc vào việc đánh giá tổn thương trong mổ.
Sau mổ, bệnh nhân có thể đeo nẹp mềm hỗ trợ, chống nạng trong một thời gian nhất định sau đó trở lại sinh hoạt bình thường. Một số trường hợp có thể phải phục hồi chức năng nếu như gối bị hạn chế duỗi trong một thời gian dài. Đa số các bệnh nhân có thể trở lại với sinh hoạt vận động bình thường, tuy nhiên, trong một số trường hợp tổn thương nặng có thể bệnh nhân vẫn bị triệu chứng đau và về lâu dài có nguy cơ thoái hóa khớp sớm.
TS. Nguyễn Quốc Dũng
Khoa Phẫu thuật khớp – Viện Chấn thương Chỉnh hình
Khoa Phẫu thuật khớp – Viện Chấn thương Chỉnh hình