Những tiến bộ trong hóa trị ung thư đại trực tràng

  02:40 AM 08/05/2018
Trong vòng 40 năm qua, đã có rất nhiều tiến bộ trong hóa trị ung thư đại trực tràng. Thời kỳ đầu, fluorouracil là hóa chất duy nhất hiệu quả trong ung thư đại trực tràng, thời gian sống thêm chỉ đạt được 8-11 tháng. Ngày nay với các thuốc mới ra đời, thời gian sống thêm kéo dài gấp đôi, nhiều bệnh nhân sống trên 2 năm. Với phần lớn các bệnh nhân, mục đích điều trị là giảm nhẹ triệu chứng, tăng thời gian sống thêm và duy trì chất lượng cuộc sống tốt hơn.

Hiện nay, có 7 nhóm thuốc chủ yếu được sử dụng trong ung thư đại trực tràng:
- Fluoropyrimidines và các dẫn chất: được tổng hợp bởi Heidelberger năm 1967, là dẫn chất đầu tiên được ghi nhận có hiệu quả trong hóa trị UTĐT. Thuốc được đưa vào dưới dạng tiền chất, trong quá trình chuyển hóa tạo ra dạng có hoạt tính, ức chế sự hoạt động của các enzym tổng hợp trong tế bào, sau đó gắn với enzym thymidylate synthase, làm ngăn cản sự tổng hợp thymidin dẫn tới ức chế tổng hợp DNA, RNA.
- Calcium folinat: một muối canxi hòa tan của acid folinic, là dạng có hoạt tính của acid folic, yếu tố dinh dưỡng cần thiết cho con người. Acid folic tham gia quá trình chuyển hoá như tổng hợp purin, tổng hợp pyrimidin - nucleotid chuyển hoá acid amin. Khi phối hợp với 5-Flourouracil, calciumfolinat làm tăng đáng kể tác dụng của nó, ngăn cản kéo dài hoạt động enzym thymidylate synthase, dẫn đến cản trở quá trình tổng hợp DNA và RNA, ảnh hưởng đến sự phân bào.
- Oxaliplatin: thuộc nhóm dẫn xuất platinum thế hệ thứ ba tác động như một phân tử gắn chặt vào DNA, ức chế sự tổng hợp DNA, và làm chết tế bào. Oxaliplatin có tác động hiệp lực cao với 5-Flourouracil.
- Irrinotecan: là dẫn xuất bán tổng hợp từ Camptothecin (hoạt chất chiết xuất từ cây Camptotheca), có tác dụng gây độc tế bào qua cơ chế bất hoạt men Topoisomerase I, làm tổn thương chuỗi đơn DNA, gây độc tế bào.
- Kháng thể đơn dòng kháng yếu tố phát triển biểu mô EGFR: cetuximab và panitumumab gắnvào phần ngoại bào của thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu mô EGFR, ngăn chặn sự truyền thông tin vào trong tế bào cho sự sao chép của nhân, dẫn đến chết theo chương trình.
- Kháng thể kháng yếu tố phát triển tạo mạch VEGF: bevacizumab là kháng thể đơn dòng kháng yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu VEGF, có vai trò cần thiết cho quá trình tân sinh mạch máu nuôi khối u.
- Thuốc truyền tĩnh mạch aflibercept: có tác dụng kháng các thụ thể nội mạch và ngoại mạch VEGF-A, VEGF-B, và yếu tố phát triển bào thai PlGF.
- Regorafenib: là một chất ức chế nhiều kinase (multi-kinase) nhắm trúng đích qua ba cơ chế tăng trưởng của khối u: ức chế sự tăng sinh của tế bào u, ức chế tương tác của vi môi trường khối u, ức chế tân tạo mạch mới.
Xét nghiệm tình trạng đột biến gen RAS giúp dự đoán tình trạng đáp ứng với các thuốc kháng yếu tố phát triển biểu mô EGFR. Cho đến nay, vẫn chưa có dấu ấn sinh học nào dự báo khả năng đáp ứng với bevacizumab và các thuốc độc tế bào.

Tiến bộ trong hóa trị dẫn tới cải thiện thời gian sống thêm ở nhóm bệnh nhân ung thư đại tràng di căn
Mặc dù các bệnh nhân ung thư đại trực tràng giai đoạn muộn không có khả năng phẫu thuật có tiên lượng rất xấu. Nhưng với sự hiểu biết về cơ chế bệnh sinh ở mức độ phân tử ngày càng được sáng tỏ dẫn tới sự ra đời nhiều thuốc điều trị mới, trong đó có các thuốc nhắm trúng đích đã giúp làm giảm nhẹ triệu chứng và kéo dài thời gian sống một cách đáng kể ở nhóm bệnh nhân này.

Khoa Huyết học Lâm sàng - Bệnh viện TWQĐ 108
Chia sẻ