Dự phòng ung thư (cancer prevention) là việc áp dụng các biện pháp nhằm giảm nguy cơ bị mắc ung thư. Bằng việc dự phòng, số lượng ca ung thư mới mắc trong cộng đồng sẽ giảm xuống và đồng thời cũng làm giảm số lượng tử vong do ung thư.
Để ngăn ngừa ung thư khởi phát cần chú ý tới yếu tố nguy cơ và yếu tố bảo vệ. Bất kỳ yếu tố nào làm tăng khả năng bị ung thư được gọi là các yếu tố nguy cơ ung thư. Còn bất kỳ yếu tố nào làm giảm khả năng bị ung thư được gọi là yếu tố bảo vệ giúp phòng ung thư.
Một số yếu tố nguy cơ ung thư có thể phòng tránh nhưng cũng có nhiều yếu tố không thể phòng tránh được. Ví dụ hút thuốc lá và một số gen di truyền đều là yếu tố nguy cơ của một số loại ung thư tuy nhiên ta mới chỉ có thể phòng tránh được nguy cơ hút thuốc mà thôi. Tập thể dục thường xuyên và ăn uống lành mạnh là yếu tố bảo vệ làm giảm tỷ lệ mắc một số loại ung thư. Tránh các yếu tố nguy cơ và tăng các yếu tố bảo vệ có thể làm giảm nguy cơ ung thư nhưng không có nghĩa là bạn sẽ không bị ung thư.
Một số yếu tố nguy cơ ung thư có thể phòng tránh nhưng cũng có nhiều yếu tố không thể phòng tránh được. Ví dụ hút thuốc lá và một số gen di truyền đều là yếu tố nguy cơ của một số loại ung thư tuy nhiên ta mới chỉ có thể phòng tránh được nguy cơ hút thuốc mà thôi. Tập thể dục thường xuyên và ăn uống lành mạnh là yếu tố bảo vệ làm giảm tỷ lệ mắc một số loại ung thư. Tránh các yếu tố nguy cơ và tăng các yếu tố bảo vệ có thể làm giảm nguy cơ ung thư nhưng không có nghĩa là bạn sẽ không bị ung thư.
Ung thư thực quản là gì? Thực quản là một ống cơ trơn có chức năng vận chuyển thức ăn và chất lỏng từ cổ họng đến dạ dày. Thành thực quản cấu tạo gồm 3 lớp: Màng nhày (niêm mạc), lớp cơ và tổ chức liên kết. Ung thư thực quản bắt đầu ở lớp niêm mạc và phát triển xâm lấn vào các lớp mô bên ngoài của thực quản. Hai loại ung thư thực quản phổ biến nhất được đặt tên theo loại tế bào ung thư bao gồm: • Ung thư biểu mô tế bào vảy (Squamous cell carcinoma): Ung thư bắt đầu ở các tế bào vảy, những tế bào phẳng, mỏng nằm lát bên trong thực quản. Loại ung thư này thường gặp nhất ở phần trên và giữa của thực quản, nhưng cũng có thể xảy ra ở bất cứ đâu dọc theo thực quản. • Ung thư biểu mô tuyến (Adenocarcinoma): Ung thư bắt đầu ở tế bào tuyến tiết nhày. Ung thư biểu mô tuyến thường khởi phát ở phần dưới của thực quản, gần dạ dày. |
|
Ung thư thực quản thường gặp hơn ở nam giới. Đàn ông có khả năng mắc ung thư thực quản cao hơn khoảng ba lần so với phụ nữ và nguy cơ mắc ung thư thực quản tăng theo độ tuổi.
Để phòng chống ung thư thực quản cần tránh các yếu tố nguy cơ và tăng cường các yếu tố bảo vệ có thể giúp ngăn ngừa ung thư.
Ung thư biểu mô tế bào vảy
Các yếu tố nguy cơ làm tăng khả năng mắc ung thư biểu mô tế bào vảy thực quản là hút thuốc và uống rượu. Các nghiên cứu cho thấy nguy cơ ung thư biểu mô tế bào vảy thực quản thấp hơn ở những người không uống rượu và hút thuốc.
Các yếu tố bảo vệ có thể làm giảm nguy cơ bị ung thư biểu mô tế bào vảy bao gồm không hút thuốc, không uống rượu và sử dụng các thuốc chống viêm giảm đau không steroid (NSAIDs) bao gồm cả aspirin. Các nghiên cứu cho thấy sử dụng các thuốc NSAIDs có thể làm giảm nguy cơ mắc ung thư biểu mô tế bào vảy thực quản. Tuy nhiên, việc sử dụng NSAIDs làm tăng nguy cơ nhồi máu cơ tim, suy tim, đột quỵ, chảy máu dạ dày - ruột, và tổn thương thận nên việc sử dụng thuốc cần có sự tư vấn của bác sỹ.
Ung thư biểu mô tuyến
Yếu tố nguy cơ chính của ung thư biểu mô tuyến thực quản là tình trạng trào ngược dạ dày. Ung thư biểu mô tuyến thực quản có liên quan mật thiết với bệnh trào ngược dạ dày thực quản (GERD), đặc biệt khi bệnh kéo dài và các triệu chứng nghiêm trọng xảy ra hàng ngày. GERD là tình trạng các thành phần của dịch dạ dày, bao gồm a xít dạ dày trào ngược vào phần dưới của thực quản. Điều này kích thích niêm mạc trong lòng thực quản, và theo thời gian, có thể ảnh hưởng đến các tế bào lót phần dưới của thực quản. Tình trạng này được gọi là thực quản Barrett. Theo thời gian, các tế bào bị ảnh hưởng được thay thế bằng các tế bào bất thường, mà sau này có thể trở thành ung thư biểu mô của thực quản. Béo phì kết hợp với GERD có thể làm tăng nguy cơ ung thư biểu mô tuyến thực quản.
Việc sử dụng thuốc giãn cơ thắt tâm vị-thực quản có thể làm tăng khả năng phát triển GERD. Khi cơ thắt tâm vị -thực quản giãn, a xít dạ dày có thể trào ngược vào phần dưới của thực quản. Các nghiên cứu đang được tiến hành để xác định xem phẫu thuật và điều trị bằng thuốc chống trào ngược có thể dự phòng được bệnh Barrett thực quản không.
Các yếu tố bảo vệ có thể làm giảm nguy cơ bị ung thư biểu mô tuyến thực quản bao gồm sử dụng các thuốc chống viêm giảm đau không steroid dự phòng bao gồm aspirin và đốt nhiệt cao tần thực quản. Một số nghiên cứu cho thấy sử dụng các thuốc NSAIDs có thể làm giảm nguy cơ mắc ung thư biểu mô tế bào vảy thực quản. Tuy nhiên, việc sử dụng NSAIDs cũng làm tăng nguy cơ nhồi máu cơ tim, suy tim, đột quỵ, chảy máu dạ dày - ruột và tổn thương thận.
Các bệnh nhân bị bệnh Barrett thực quản có các tế bào bất thường ở phần dưới thực quản có thể được điều trị bằng đốt nhiệt cao tần. Thủ thuật này sử dụng sóng radio để đốt nóng và tiêu diệt các tế bào bất thường có thể phát triển thành ung thư. Tuy nhiên đốt nhiệt cao tần làm tăng nguy cơ hẹp thực quản, chảy máu thực quản – dạ dày ruột. Một nghiên cứu cho thấy các bệnh nhân Barrett thực quản có tế bào bất thường ở thực quản được đốt nhiệt cao tần dường như ít bị ung thư thực quản hơn so với các bệnh nhân Barrett thực quản không được đốt nhiệt cao tần.
Tóm lại, để giảm nguy cơ mắc ung thư thực quản chúng ta cần thực hiện một lối sống lành mạnh, tránh uống rượu, hút thuốc, duy trì cân nặng hợp lý tránh thừa cân béo phì, điều trị bệnh trào ngược dạ dày thực quản nếu có. Nên tư vấn bác sỹ về lợi ích và nguy cơ của việc sử dụng thuốc chống viêm giảm đau không steroid để dự phòng ung thư thực quản.
Yếu tố nguy cơ chính của ung thư biểu mô tuyến thực quản là tình trạng trào ngược dạ dày. Ung thư biểu mô tuyến thực quản có liên quan mật thiết với bệnh trào ngược dạ dày thực quản (GERD), đặc biệt khi bệnh kéo dài và các triệu chứng nghiêm trọng xảy ra hàng ngày. GERD là tình trạng các thành phần của dịch dạ dày, bao gồm a xít dạ dày trào ngược vào phần dưới của thực quản. Điều này kích thích niêm mạc trong lòng thực quản, và theo thời gian, có thể ảnh hưởng đến các tế bào lót phần dưới của thực quản. Tình trạng này được gọi là thực quản Barrett. Theo thời gian, các tế bào bị ảnh hưởng được thay thế bằng các tế bào bất thường, mà sau này có thể trở thành ung thư biểu mô của thực quản. Béo phì kết hợp với GERD có thể làm tăng nguy cơ ung thư biểu mô tuyến thực quản.
Việc sử dụng thuốc giãn cơ thắt tâm vị-thực quản có thể làm tăng khả năng phát triển GERD. Khi cơ thắt tâm vị -thực quản giãn, a xít dạ dày có thể trào ngược vào phần dưới của thực quản. Các nghiên cứu đang được tiến hành để xác định xem phẫu thuật và điều trị bằng thuốc chống trào ngược có thể dự phòng được bệnh Barrett thực quản không.
Các yếu tố bảo vệ có thể làm giảm nguy cơ bị ung thư biểu mô tuyến thực quản bao gồm sử dụng các thuốc chống viêm giảm đau không steroid dự phòng bao gồm aspirin và đốt nhiệt cao tần thực quản. Một số nghiên cứu cho thấy sử dụng các thuốc NSAIDs có thể làm giảm nguy cơ mắc ung thư biểu mô tế bào vảy thực quản. Tuy nhiên, việc sử dụng NSAIDs cũng làm tăng nguy cơ nhồi máu cơ tim, suy tim, đột quỵ, chảy máu dạ dày - ruột và tổn thương thận.
Các bệnh nhân bị bệnh Barrett thực quản có các tế bào bất thường ở phần dưới thực quản có thể được điều trị bằng đốt nhiệt cao tần. Thủ thuật này sử dụng sóng radio để đốt nóng và tiêu diệt các tế bào bất thường có thể phát triển thành ung thư. Tuy nhiên đốt nhiệt cao tần làm tăng nguy cơ hẹp thực quản, chảy máu thực quản – dạ dày ruột. Một nghiên cứu cho thấy các bệnh nhân Barrett thực quản có tế bào bất thường ở thực quản được đốt nhiệt cao tần dường như ít bị ung thư thực quản hơn so với các bệnh nhân Barrett thực quản không được đốt nhiệt cao tần.
Tóm lại, để giảm nguy cơ mắc ung thư thực quản chúng ta cần thực hiện một lối sống lành mạnh, tránh uống rượu, hút thuốc, duy trì cân nặng hợp lý tránh thừa cân béo phì, điều trị bệnh trào ngược dạ dày thực quản nếu có. Nên tư vấn bác sỹ về lợi ích và nguy cơ của việc sử dụng thuốc chống viêm giảm đau không steroid để dự phòng ung thư thực quản.
Nguồn: https://www.cancer.gov
Kỹ sư Lê Mạnh Đức,
Khoa Xạ trị - Xạ phẫu, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108.