Đề phòng đau bụng thượng vị kéo dài có thể là dấu hiệu của bệnh lý chết người

  07:47 AM 04/11/2020
Ung thư tụy xếp thứ 8 ở nam và thứ 9 ở nữ trong các nguyên nhân gây chết vì ung thư toàn cầu (khoảng 250.000 trường hợp tử vong hàng năm ở cả hai giới). Đây là nhóm bệnh có tiên lượng xấu vì đa phần khi được chẩn đoán người bệnh đã ở giai đoạn muộn: chỉ 15 – 20% bệnh nhân đến viện còn chỉ định phẫu thuật. Hơn thế nữa, dù còn chỉ định phẫu thuật thì tiên lượng sống sau mổ cũng không cao: tỷ lệ sống sau mổ 5 năm khoảng 25 – 30% và 10% khi đã di căn hạch.

 

Biểu hiện lâm sàng ung thư tụy ngoại tiết không đặc hiệu, thường biểu hiện đau bụng âm ỉ, vàng da và gầy sút cân. Trong nghiên cứu của Porta và cộng sự 2005 trên 185 bệnh nhân ung thư tụy, tác giả nhận thấy các triệu chứng cơ năng thường gặp gồm: mệt mỏi (86%), gầy sút cân (85%), chán ăn (83%), đau bụng (79%), nước tiểu sẫm màu (59%), vàng da (56%), đau lưng (49%). Đau bụng là triệu chứng hay gặp nhất, dù kích thước u nhỏ (<2cm), thường đau âm ỉ vùng thượng vị, có thể lan ra sau lưng; người bệnh thường xuất hiện đau 1-2 tháng trước khi phát hiện bệnh. Đau cấp tính rất hiếm gặp, thường do u bít tắc ống tụy chính gây viêm tụy cấp.

Chính vì vậy khi đứng trước một trường hợp đau bụng thượng vị âm ỉ kéo dài kết hợp với các yếu tố nguy cơ như tuổi cao, hút thuốc hay tiểu đường luôn cần chẩn đoán phân biệt với ung thư tụy. Mặc dù siêu âm ổ bụng là biện pháp rẻ tiền và thuận lợi để phát hiện các bệnh lý mật tụy, siêu âm qua thành bụng tỏ ra ít hiệu quả trong các tổn thương tụy có kích thước <2cm. Chụp cắt lớp vi tính (CT scan) là biện pháp chẩn đoán hình ảnh được khuyến cáo chỉ định cho những trường hợp nghi ngờ ung thư tụy, đồng thời marker ung thư CA 19-9 được chứng minh là có giá trị cao trong chẩn đoán cũng như theo dõi ung thư tụy.

Phẫu thuật cắt tụy là chỉ định điều trị triệt căn duy nhât cho những trường hợp ung thư tụy, nhưng như đã đề cập ở trên chỉ một phần năm người bệnh đến viện mà khối u còn ở giai đoạn có thể phẫu thuật. Hơn thế nữa đây là một phẫu thuật phức tạp đòi hỏi kỹ năng phẫu tích, vét hạch và thực hiện các miệng nối nhằm giảm nguy cơ rò tụy (biến chứng xem là nguy hiểm và hay gặp nhất trong phẫu thuật tụy). Do đó người bệnh nên được khuyến cáo phẫu thuật ở những trung tâm ngoại khoa lớn (hàng năm phẫu thuật từ 12 trường hợp cắt khối tá tụy trở lên).

Từ những điều kể trên, mỗi chúng ta cần chú ý, có thái độ đề phòng với triệu chứng tưởng chừng như vô hại như đau thượng vị. Khi xuất hiện triệu chứng trên kết hợp với gầy sút cân hoặc ở người có nguy cơ như cao tuổi, hút thuốc lá hay tiểu đường cần đến thăm khám ở những cơ sở y tế lớn, để có những tư vấn và điều trị phù hợp nhất.

ThS. BS. Hồ Văn Linh, Khoa Phẫu thuật Gan Mật Tụy

Chia sẻ