Thực quản là một ống tiêu hóa chứa thức ăn và các chất lỏng đi từ họng xuống dạ dày. Các tuyến của thực quản chế tiết ra các chất nhầy giúp làm ẩm đường dẫn thức ăn và thức ăn có thể đi xuống dạ dày dễ dàng hơn.
Ở người trưởng thành thực quản dài khoảng 25cm.
Ung thư thực quản là khối u ác tính xuất phát từ các tế bào biểu mô của thực quản. Bao gồm hai loại chính là ung thư biểu mô vảy và ung thư biểu mô tuyến. Ung thư biểu mô vảy xuất phát từ tế bào dạng biểu bì ở thành thực quản và thường xuất phát ở phần trên và giữa thực quản. Ung thư biểu mô tuyến thường phát triển từ tổ chức tuyến ở phần dưới thực quản.
Các yếu tố nguy cơ ung thư thực quản
Yếu tố gây bệnh chính xác của ung thư thực quản hiện nay chưa rõ. Tuy nhiên, các nghiên cứu đã chỉ ra có một số yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư thực quản: tuổi cao, nam giới, hút thuốc, uống rượu... Phần lớn các bệnh nhân mắc bệnh ở tuổi trên 60. Hút thuốc lá hoặc các chế phẩm có thuốc lá là nguy cơ chủ yếu gây ung thư thực quản. Những người nghiện rượu hoặc uống rượu thường xuyên có nguy cơ cao bị ung thư thực quản, nguy cơ này đặc biệt cao ở những người sử dụng cả rượu và thuốc lá; bệnh lý thực quản như viêm thực quản Barrett: loét thực quản kéo dài làm tăng nguy cơ bị ung thư thực quản; các bệnh lý khác gây hoại tử niêm mạc thực quản như nuốt phải chất acid hoặc các chất phụ gia khác cũng làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư thực quản. Ngoài ra, các bệnh nhân bị các bệnh ung thư vùng đầu, mặt, cổ có thể làm tăng nguy cơ bị ung thư thứ hai ở vùng này, trong đó có ung thư thực quản.
Ung thư thực quản là khối u ác tính xuất phát từ các tế bào biểu mô của thực quản. Bao gồm hai loại chính là ung thư biểu mô vảy và ung thư biểu mô tuyến. Ung thư biểu mô vảy xuất phát từ tế bào dạng biểu bì ở thành thực quản và thường xuất phát ở phần trên và giữa thực quản. Ung thư biểu mô tuyến thường phát triển từ tổ chức tuyến ở phần dưới thực quản.
Các yếu tố nguy cơ ung thư thực quản
Yếu tố gây bệnh chính xác của ung thư thực quản hiện nay chưa rõ. Tuy nhiên, các nghiên cứu đã chỉ ra có một số yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư thực quản: tuổi cao, nam giới, hút thuốc, uống rượu... Phần lớn các bệnh nhân mắc bệnh ở tuổi trên 60. Hút thuốc lá hoặc các chế phẩm có thuốc lá là nguy cơ chủ yếu gây ung thư thực quản. Những người nghiện rượu hoặc uống rượu thường xuyên có nguy cơ cao bị ung thư thực quản, nguy cơ này đặc biệt cao ở những người sử dụng cả rượu và thuốc lá; bệnh lý thực quản như viêm thực quản Barrett: loét thực quản kéo dài làm tăng nguy cơ bị ung thư thực quản; các bệnh lý khác gây hoại tử niêm mạc thực quản như nuốt phải chất acid hoặc các chất phụ gia khác cũng làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư thực quản. Ngoài ra, các bệnh nhân bị các bệnh ung thư vùng đầu, mặt, cổ có thể làm tăng nguy cơ bị ung thư thứ hai ở vùng này, trong đó có ung thư thực quản.
Hình ảnh nội soi khối u thực quản.
Các dấu hiệu nhận biết ung thư thực quản
Ở giai đoạn sớm, ung thư thực quản thường không có biểu hiện triệu chứng. Tuy nhiên, khi khối u phát triển, có thể xuất hiện các triệu chứng: nuốt đau, nuốt khó; gầy sút cân nhiều; đau họng hoặc lưng, phía sau xương ức hoặc hai xương bả vai; rát họng hoặc ho kéo dài; nôn; ho ra máu. Các triệu chứng này có thể do ung thư thực quản gây ra hoặc do một căn bệnh khác, do vậy với các triệu chứng này ngoài thăm khám lâm sàng cần làm một số xét nghiệm: chụp thực quản có uống thuốc cản quang; nội soi thực quản; chụp cắt lớp vi tính (CT Scanner; xạ hình xương); chụp PET/CT xem mức độ xâm lấn của ung thư.
Ở giai đoạn sớm, ung thư thực quản thường không có biểu hiện triệu chứng. Tuy nhiên, khi khối u phát triển, có thể xuất hiện các triệu chứng: nuốt đau, nuốt khó; gầy sút cân nhiều; đau họng hoặc lưng, phía sau xương ức hoặc hai xương bả vai; rát họng hoặc ho kéo dài; nôn; ho ra máu. Các triệu chứng này có thể do ung thư thực quản gây ra hoặc do một căn bệnh khác, do vậy với các triệu chứng này ngoài thăm khám lâm sàng cần làm một số xét nghiệm: chụp thực quản có uống thuốc cản quang; nội soi thực quản; chụp cắt lớp vi tính (CT Scanner; xạ hình xương); chụp PET/CT xem mức độ xâm lấn của ung thư.
4 giai đoạn của ung thư thực quản
Giai đoạn 1: Ung thư chỉ nằm ở lớp trên cùng của thành thực quản.
Giai đoạn 2: Ung thư lan đến lớp sâu hơn của thành thực quản hoặc xâm lấn đến tổ chức bạch huyết lân cận. Ung thư chưa xâm lấn đến các bộ phận khác của cơ thể.
Giai đoạn 3: Ung thư xâm lấn lớp sâu hơn của thành thực quản hoặc xâm lấn tổ chức hoặc hạch bạch huyết trong vùng cạnh thực quản.
Giai đoạn 4: Ung thư xâm lấn các bộ phận khác của cơ thể. Ung thư có thể lan đến mọi vị trí bao gồm: gan, phổi, não, xương.
Giai đoạn 1: Ung thư chỉ nằm ở lớp trên cùng của thành thực quản.
Giai đoạn 2: Ung thư lan đến lớp sâu hơn của thành thực quản hoặc xâm lấn đến tổ chức bạch huyết lân cận. Ung thư chưa xâm lấn đến các bộ phận khác của cơ thể.
Giai đoạn 3: Ung thư xâm lấn lớp sâu hơn của thành thực quản hoặc xâm lấn tổ chức hoặc hạch bạch huyết trong vùng cạnh thực quản.
Giai đoạn 4: Ung thư xâm lấn các bộ phận khác của cơ thể. Ung thư có thể lan đến mọi vị trí bao gồm: gan, phổi, não, xương.
Một số biện pháp điều trị ung thư thực quản
Điều trị ung thư thực quản phụ thuộc một số yếu tố bao gồm kích thước, vị trí, sự lan tràn khối u và tình trạng chung của bệnh nhân. Điều quan trọng nhất trong điều trị ung thư thực quản là phối hợp dinh dưỡng. Điều trị dinh dưỡng cần đi trước khi tiến hành các biện pháp điều trị khác.
Phẫu thuật: Là biện pháp điều trị chủ yếu ung thư thực quản. Thông thường khối u được lấy cùng với một phần hoặc toàn bộ thực quản, tổ chức bạch huyết kế cận và các tổ chức khác trong vùng. Sau đó phần còn lại của thực quản sẽ được nối với dạ dày giúp bệnh nhân vẫn tiếp tục nuốt như bình thường. Trong một số trường hợp, đoạn nối có thể được tạo bởi một đoạn ruột non hoặc một ống nhựa.
Xạ trị: Xạ trị có thể được điều trị đơn thuần hoặc kết hợp hóa chất như một biện pháp điều trị khởi đầu thay cho phẫu thuật đặc biệt khi khối u lớn và ở vị trí khó khăn cho phẫu thuật. Thậm chí cả khi khối u không thể lấy bỏ được bằng phẫu thuật hoặc xạ trị thì điều trị tia xạ có thể giúp giảm đau và giúp bệnh nhân nuốt dễ dàng hơn.
Hóa trị liệu: Hóa chất có thể kết hợp xạ trị như biện pháp điều trị khởi đầu thay cho phẫu thuật hoặc nhằm làm giảm kích thước u trước phẫu thuật.
Điều trị laser: Laser liệu pháp chỉ ảnh hưởng đến các tế bào trong vùng điều trị và được sử dụng nhằm phá hủy tổ chức ung thư và giải phóng vùng tắc nghẽn của ung thư thực quản giúp làm giảm triệu chứng khó nuốt.
Điều trị quang động học: Có thể sử dụng liệu pháp quang động học giúp giảm các triệu chứng khó nuốt của ung thư thực quản.
Điều trị ung thư thực quản phụ thuộc một số yếu tố bao gồm kích thước, vị trí, sự lan tràn khối u và tình trạng chung của bệnh nhân. Điều quan trọng nhất trong điều trị ung thư thực quản là phối hợp dinh dưỡng. Điều trị dinh dưỡng cần đi trước khi tiến hành các biện pháp điều trị khác.
Phẫu thuật: Là biện pháp điều trị chủ yếu ung thư thực quản. Thông thường khối u được lấy cùng với một phần hoặc toàn bộ thực quản, tổ chức bạch huyết kế cận và các tổ chức khác trong vùng. Sau đó phần còn lại của thực quản sẽ được nối với dạ dày giúp bệnh nhân vẫn tiếp tục nuốt như bình thường. Trong một số trường hợp, đoạn nối có thể được tạo bởi một đoạn ruột non hoặc một ống nhựa.
Xạ trị: Xạ trị có thể được điều trị đơn thuần hoặc kết hợp hóa chất như một biện pháp điều trị khởi đầu thay cho phẫu thuật đặc biệt khi khối u lớn và ở vị trí khó khăn cho phẫu thuật. Thậm chí cả khi khối u không thể lấy bỏ được bằng phẫu thuật hoặc xạ trị thì điều trị tia xạ có thể giúp giảm đau và giúp bệnh nhân nuốt dễ dàng hơn.
Hóa trị liệu: Hóa chất có thể kết hợp xạ trị như biện pháp điều trị khởi đầu thay cho phẫu thuật hoặc nhằm làm giảm kích thước u trước phẫu thuật.
Điều trị laser: Laser liệu pháp chỉ ảnh hưởng đến các tế bào trong vùng điều trị và được sử dụng nhằm phá hủy tổ chức ung thư và giải phóng vùng tắc nghẽn của ung thư thực quản giúp làm giảm triệu chứng khó nuốt.
Điều trị quang động học: Có thể sử dụng liệu pháp quang động học giúp giảm các triệu chứng khó nuốt của ung thư thực quản.
Lời khuyên của thầy thuốc
Như trên đã nói, ở giai đoạn sớm, ung thư thực quản thường không có biểu hiện triệu chứng, do vậy để phát hiện sớm những người có yếu tố nguy cơ như trên 60 tuổi, hút thuốc lá, uống rượu mạnh, bị bệnh trào ngược dạ dày thực quản cần khám sức khỏe định kỳ; khi có biểu hiện nghi ngờ, cần nội soi thực quản để kiểm tra. Cách tốt nhất dự phòng căn bệnh này là từ bỏ hoặc không bao giờ hút thuốc lá và sử dụng các chế phẩm có thuốc lá; hạn chế uống rượu ở mức trung bình; thay đổi chế độ ăn, tăng lượng rau và hoa quả ăn vào hàng ngày.
Theo SKĐS online
Như trên đã nói, ở giai đoạn sớm, ung thư thực quản thường không có biểu hiện triệu chứng, do vậy để phát hiện sớm những người có yếu tố nguy cơ như trên 60 tuổi, hút thuốc lá, uống rượu mạnh, bị bệnh trào ngược dạ dày thực quản cần khám sức khỏe định kỳ; khi có biểu hiện nghi ngờ, cần nội soi thực quản để kiểm tra. Cách tốt nhất dự phòng căn bệnh này là từ bỏ hoặc không bao giờ hút thuốc lá và sử dụng các chế phẩm có thuốc lá; hạn chế uống rượu ở mức trung bình; thay đổi chế độ ăn, tăng lượng rau và hoa quả ăn vào hàng ngày.