Ca lâm sàng ung thư vú thành công với điều trị tân bổ trợ

  04:22 PM 03/07/2023

- Ung thư vú là bệnh ung thư phổ biến nhất, đồng thời là nguyên nhân chính gây tử vong do ung thư ở phụ nữ. Việt Nam là nước có tỷ lệ ung thư vú cao, năm 2020 căn bệnh này đứng đầu về số ca mới mắc trong các bệnh ung thư ở nữ giới với 21.555 ca, đứng thứ ba về số ca tử vong chung do ung thư với hơn 9.000 ca [1].

- Điều trị hoá chất tân bổ trợ trong ung thư vú là phương pháp sử dụng các thuốc theo đường toàn thân (truyền, tiêm, uống...) trước phẫu thuật, nhằm giúp cho phẫu thuật thuận lợi và triệt để hơn.

- Điều trị tân bổ trợ ung thư vú mang lại nhiều lợi ích như giúp chuyển khối u không phẫu thuật được thành có thể phẫu thuật được, tăng khả năng phẫu thuật bảo tồn vú, ngăn chặn tình trạng bùng phát u sau phẫu thuật, giúp đưa hoá chất đến u và hạch khi hệ thống mạch còn nguyên vẹn, đáp ứng hoàn toàn về mô bệnh học (pCR) là một chỉ số tiên lượng tốt cho thời gian sống thêm, giúp có thêm thời gian để hoàn thiện các xét nghiệm chuyên sâu cũng như lên kế hoạch phẫu thuật bảo tồn hoặc tạo hình vú...[2], [3].

Sau đây là một ca ung thư vú được điều trị thành công tại khoa Ung thư Tổng hợp.

- Bệnh nhân P.T.C. nữ 56 tuổi.

- Tiền sử: mãn kinh từ 2017, PARA = 2002. Không có bệnh lý kết hợp. Không có tiền sử gia đình có người mắc ung thư vú, phụ khoa.

- Diễn biến bệnh lý:

Tháng 3/2022: BN tự sờ thấy khối u ¼ trên trong vú trái, KT 1 cm, cứng chắc, không đau, di động được. Kích thước u tăng dần. Tháng 5/2022, kích thước u 3x4 cm, cứng, đau. Khám tại BV 108 được sinh thiết tổn thương vú, kết quả MBH: Ung thư biểu mô tuyến vú xâm nhập độ, NOS, độ 3. BN có chỉ định nhập viện điều trị nhưng không đồng ý, về nhà tự uống thuốc nam. Khối u to nhanh về kích thước, xâm lấn da, tạo khối lớn sùi loét, chảy máu. Tháng 7/2022, tổn thương vú xâm lấn mạch máu gây chảy máu thành tia, bệnh nhân hoa mắt chóng mặt, mệt mỏi nhiều vào cấp cứu tại khoa sản BV 108 được cầm máu. Ngày 26/7 vào A6D điều trị trong tình trạng: mệt mỏi, ăn kém.

Hình ảnh khối u lúc nhập viện, sau khi được cầm máu: khối u lớn 10x8 cm chiếm toàn bộ vú trái, chảy dịch, rướm máu, cứng chắc, ấn đau, di động, chưa xâm lấn ngực. Hạch nách trái nhiều hạch dính nhau thành đám, KT hạch max 2 cm.

Trên CLVT ngực: vị trí ½ trên trong vú trái có khối tổn thương KT 73x64x73 cm, ngấm thuốc không đồng nhất, bờ không đều, xâm lấn mô và da tương ứng, co kéo núm vú. Hạch hố nách trái nhiều hạch, dính thành đám, KT max 2 cm.

- Nhận định chẩn đoán:

Ung thư biểu mô vú trái xâm nhập, NOS, độ 3, thể tam âm giai đoạn cT4N2M0.

- Hướng điều trị: Hoá chất tân bổ trợ phác đồ 4AC – 4T liều dày.

Gồm 8 chu kỳ hoá chất, cách nhau mỗi 2 tuần: 4 chu kỳ AC, 4 chu kỳ T.

+ Phác đồ AC: Doxorubicine 60 mg/m2, ngày 1 và Cyclophosphamide 600 mg/m2, ngày 1.

+ Phác đồ T: Paclitaxel 175 mg/m2, ngày 1.

+ Kích bạch cầu dự phòng 24 giờ sau truyền hoá chất: Peg-grafeel.

- Đánh giá đáp ứng điều trị:

+ Sau 1 chu kỳ điều trị: Kích thước khối u giảm rõ rệt (còn 30%) so với trước điều trị, ổ loét thu nhỏ, vú mềm, u còn 2.5x3 cm.

 

+ Sau 4 chu kỳ AC, kích thước khối u còn khoảng 1x2 cm, tổn thương da hở khoảng 1x0.5 cm. Hạch nách nhỏ, KT 0.5 cm.

 

+ Sau điều trị tân bổ trợ với 8 chu kỳ 4AC + 4T, khối u vú và hạch nách đáp ứng hoàn toàn trên lâm sàng. Không sờ thấy u và hạch trên lâm sàng, chụp CLVT còn tổn thương dạng xơ tại vị trí u vú. Tổn thương loét liền hoàn toàn.

 

Kế hoạch điều trị tiếp theo:

- Bệnh nhân được chuyển khoa B11 phẫu thuật cắt hoàn toàn vú trái + nạo vét hạch nách trái.

Chẩn đoán trước phẫu thuật:

Ung thư biểu mô vú trái xâm nhập, NOS, độ 3, thể tam âm giai đoạn cT4N2M0 đã điều trị hoá chất tân bổ trợ 4AC+4T liều dày, ycT0N0M0.

- Sau phẫu thuật, các bệnh phẩm vú và hạch nách được gửi đến khoa Giải phẫu bệnh để đánh giá đáp ứng trên mô bệnh học sau mổ, kết quả: không còn tế bào u tại bệnh phẩm vú và hạch nách.

Bệnh nhân đánh giá đáp ứng hoàn toàn trên lâm sàng (pCR): ypT0N0M0.

Và được tiếp tục chuyển khoa Xạ trị - xạ phẫu để xạ trị bổ trợ.

- Hiện bệnh nhân đang trong quá trình theo dõi không bệnh sau 1 năm kể từ khi bắt đầu điều trị.

 

Kết quả ngoạn mục trên đã thay đổi hoàn toàn “số phận” của bệnh nhân, giúp cô có niềm tin hơn trong cuộc sống. Việc được các bác sĩ tận tình cứu chữa và tư vấn, giáo dục cũng giúp người bệnh thấy trân quý sức khoẻ và tuân thủ tái khám định kỳ nghiêm túc hơn.

 

Tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, việc ra quyết định điều trị cho bệnh nhân ung thư vú sẽ phải thông qua tiểu ban ung thư vú. Tiểu ban ung thư vú gồm các chuyên gia từ các chuyên ngành khác nhau liên quan đến bệnh lý này như: nội khoa ung thư, xạ trị, sản phụ khoa, chẩn đoán hình ảnh, giải phẫu bệnh. Do vậy, bệnh nhân luôn được tiếp cận với các phương pháp điều trị tối ưu nhất, cập nhật sớm nhất các khuyến cáo mới nhất của các Hiệp hội Ung thư Quốc tế uy tín và dựa trên tình trạng cụ thể của từng bệnh nhân.

Tác giả: BSNT.BSCK1. Phạm Đình Phúc, khoa Ung thư Tổng hợp, Viện Ung thư.

Chia sẻ