Giá trị của một số dấu ấn sinh học trong chẩn đoán và điều trị ung thư biểu mô tế bào gan

  08:55 AM 08/10/2020
Theo số liệu của Globocan 2018 thì ung thư gan là loại ung thư có tỉ lệ mắc bệnh và tỉ lệ tử vong đứng hàng thứ nhất trong các bệnh ung thư ở Việt Nam. Trên thế giới, ung thư gan đứng hàng thứ sáu trong các bệnh ung thư hay gặp và đứng hàng thứ tư trong các nguyên nhân gây tử vong do ung thư.

Ung thư biểu mô tế bào gan nếu được chẩn đoán ở giai đoạn sớm và điều trị đúng phương pháp sẽ có tiên lượng khả quan. Tỉ lệ sống 5 năm đối với bệnh nhân được điều trị là 50-70% tùy từng nghiên cứu. Chính vì vậy mà các biện pháp sàng lọc phát hiện sớm ung thư biểu mô tế bào gan hiện rất được chú trọng nghiên cứu và phát triển. Các tổ chức ung thư học trên thế giới đều công nhận việc siêu âm đánh giá nhu mô gan kết hợp xét nghiệm chất chỉ điểm khối u (AFP) trong huyết thanh định kỳ ở những bệnh nhân có yếu tố nguy cơ gây bệnh ung thư biểu mô tế bào gan, là phương pháp sàng lọc hiệu quả. Tuy nhiên siêu âm đánh giá nhu mô gan rất khó phát hiện được khối u thể thâm nhiễm. Còn xét nghiệm AFP có tới khoảng 35% là âm tính giả trong các trường hợp ung thư gan. Vì điều này mà các nhà nghiên cứu trên thế giới đã nỗ lực tìm kiếm một phương pháp sàng lọc có hiệu quả cao hơn. Kết quả là ra đời xét nghiệm kết hợp định lượng 2 yếu tố AFP và PIVKA-II. Chất chỉ điểm khối u (tumor marker) AFP là xét nghiệm thường quy trong chẩn đoán, tiên lượng bệnh và theo dõi tái phát ung thư gan nguyên phát. Tuy nhiên chỉ số AFP có thể tăng trong bệnh viêm gan cấp, viêm gan mạn, xơ gan, hoại tử gan…

Xét nghiệm PIVKA-II (prothrombin induced by the absence of vitamin K or antagonist-II) đặc hiệu hơn trong chẩn đoán phân biệt ung thư gan với các bệnh lý gan khác. Hai xét nghiệm này trong một số trường hợp không phù hợp với nhau, vì thế chúng có ý nghĩa độc lập. PIVKA-II (prothrombin induced by vitamin K absence-II) là protein Des-γ-carboxy prothrombin (DCP), một sản phẩm bất thường của prothrombin do rối loạn sự carboxyl hóa của gan trong quá trình tạo thành thrombogen và tác động như một yếu tố tự phân bào (autologous mitogen) đối với dòng tế bào HCC. Bình thường, tiền chất prothrombin phải trải qua sự carboxyl hóa phụ thuộc vitamin K của 10 gốc glutamic acid ở đầu tận N của chuỗi polypeptide để sản xuất ra phân tử prothrombin tự nhiên.

Trong HCC, sự chuyển dạng này bị cản trở do enzyme carboxylase bị ức chế, dẫn đến sự tích lũy của DCP. Thời gian bán hủy của DCP trong huyết thanh là 4 ngày. Xét nghiệm prothrombin des-gamma-carboxy (DCP) được sử dụng cùng với các chất đánh dấu khối u khác như alpha-fetoprotein (AFP) và/hoặc AFP-L3% để theo dõi hiệu quả điều trị ung thư biểu mô tế bào gan (HCC). Nó cũng có thể được sử dụng để theo dõi sự tái phát của HCC sau khi điều trị. Chỉ số AFP phản ánh tình trạng phát triển khối u trong gan, chỉ số PIVKA-II phản ảnh tình trạng xâm lấn mạch máu, huyết khối tĩnh mạch cửa và xâm lấn ra ngoài gan, bổ sung cho chỉ số AFP. Do vậy xét nghiệm cả AFP và PIVKA-II có giá trị trong chẩn đoán, đánh giá hiệu quả điều trị và tiên lượng bệnh.

Hình 1: Quá trình chuyển hoá của PIVKA II

Các nghiên cứu cho thấy các bệnh nhân có chỉ số AFP và PIVKA-II cao trước phẫu thuật thì tỉ lệ tái phát sớm (trong vòng 6 tháng sau phẫu thuật)) cao hơn nhóm bệnh nhân có chỉ số thấp. Nhóm bệnh nhân có xâm nhập vi thể mạch máu, hoặc nhiều khối u thì có chỉ số AFP và PIVKA-II cao hơn nhóm khác. Những bệnh nhân ung thư gan sau phẫu thuật 3 tháng có chỉ số AFP và PIVKA-II cao thì có thời gian sống thêm toàn bộ thấp hơn nhóm có chỉ số bình thường. Thời gian tăng gấp đôi AFP và PIVKA II ngắn cũng cho thấy thời gian sống không bệnh và thời gian sống thêm toàn bộ thấp hơn. Kết quả nghiên cứu của Noh JH cho thấy nhóm bệnh nhân có chỉ số PIVKA-II >200 thì tỉ lệ tái phát cao hơn nhóm bệnh nhân có chỉ số PIVKA-II <200. Theo nghiên cứu của Nanashima A, năm 2011 thấy rằng những bệnh nhân có mức độ AFP và DCP tăng cao hơn sau phẫu thuật thường có khả năng sống sót kém hơn đáng kể so với những bệnh nhân có mức độ các dấu ấn bình thường. Mức độ tăng nhanh của các dấu ấn thể hiện khả năng xâm lấn của khối u còn sót lại sau phẫu thuật.

Hình 2: Phẫu thuật cắt gan trung tâm điều trị ung thư biểu mô tế bào gan tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108

Như vậy việc xét nghiệm chỉ số AFP và PIVKA-II là cần thiết và cần làm thường quy đối với các bệnh nhân ung thư gan. Với nhóm bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật cần cân nhắc khi có chỉ số AFP và PIVKA-II cao, cần tiến hành phối hợp một số biện pháp điều trị trước mổ như TACE hoặc RFA để kiểm soát khối u.

Lê Văn Thành và cs

Khoa Phẫu thuật Gan mật tuỵ, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108

 

Chia sẻ