Các phương pháp chẩn đoán hình ảnh sử dụng trong chẩn đoán trượt đốt sống

  09:11 AM 15/10/2019
Trượt đốt sống (Spondylolisthesis) là thuật ngữ để chỉ sự di lệch của một đốt sống so với đốt sống bên dưới, đốt sống phía trên có thể di lệch ra trước so với đốt sống bên dưới (Anterolisthsis) hoặc di chuyển ra sau (Retrolisthesis). Trượt đốt sống có thể xảy ra ở tất cả các vị trí, tuy nhiên thường gặp ở cột sống thắt lưng, hay gặp nhất ở vị trí thân đốt L5/S1 và L4/5.

Theo phân loại của Wiltse năm 1981, nguyên nhân trượt đốt sống được phân chia làm 06 loại, lần lượt là do loạn sản, do tổn thương eo, do thoái hóa, do chấn thương, do bệnh lý và do thủ thuật.

Để đánh giá mức độ của trượt đốt sống, hiện nay hay sử dụng bảng phân loại của Meyerding, phương pháp này chia đường kính trước sau của mặt trên thân đốt sống dưới thành 4 phần bằng nhau, tương ứng với các mốc 25%, 50%, 75% và 100%. Khi đó các mức độ trượt đốt sống được tính như sau: 0-25%: độ I, 26-50%: độ II, 51-75%: độ III, 76-100%: độ IV, trượt hoàn toàn đốt sống ra trước (spondyloptosis): >100%.

Các phương pháp chẩn đoán hình ảnh được sử dụng trong chẩn đoán trượt đốt sống:

1. X quang quy ước

Đây là phương pháp được sử dụng nhiều nhất trong chẩn đoán trượt đốt sống. Nên chụp ở tư thế đứng vì ở tư thế này các biến dạng của cột sống được bộc lộ rõ hơn. Tư thế chụp thẳng – nghiêng cho phép chẩn đoán trượt đốt sống, đánh giá mức độ trượt; tư thế chụp X quang cột sống động (cúi, ưỡn tối đa) cho phép bộc lộ các trường hợp trượt đốt sống mà trên phim nghiêng không thấy được, đồng thời có thể phát hiện những chuyển động bất thường trong bệnh lý mất vững cột sống. X quang cột sống chếch cho phép phát hiện các trường hợp trượt đốt sống do hở eo (dấu hiệu vòng cổ chó Scottie). 

Trượt L4 ra trước độ I do hở eo

Dấu hiệu vòng cổ chó Scottie trên X quang chếch

2. Cắt lớp vi tính

Chụp CLVT ngoài việc chẩn đoán trượt đốt sống còn cho phép đánh giá các tổn thương khác ở thân đốt sống như hở eo, phát hiện các bệnh lý ở thân đốt sống (nếu có) cũng như liên quan với phần mềm cạnh sống, ống sống...

Hình ảnh trượt L5 ra trước độ II do hở eo trên các mặt phẳng axial, sagittal và ảnh 3D

3. Cộng hưởng từ

Ngoài việc phát hiện tổn thương trượt đốt sống, MRI có ưu thế vượt trội hơn các phương pháp trên trong đánh giá tổn thương ở thân đốt sống cũng như các tổn thương phần mềm, MRI cho phép định hướng nguyên nhân tổn thương thân đốt (nếu có) đồng thời đánh giá đĩa đệm, dây chằng vàng, đánh giá mức độ chèn ép các rễ thần kinh, tình trạng hẹp lỗ ghép trên bệnh nhân trượt đốt sống.

Các hình ảnh được sử dụng trong bài viết lấy từ website  https://radiopaedia.org/

BS Lê Văn Tý - Khoa Chẩn đoán hình ảnh

Chia sẻ